Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước. Đến nay, nó đã đi vào học đường, đi vào các sinh hoạt cộng đồng và thậm chí, còn là thời trang văn vẻ cho một số người trí thức nữa.
Đó là điều đáng phấn khởi, đáng khích lệ, nhưng mặt khác, cũng là điều đáng phải e dè vậy. Sự bí truyền khi được phổ truyền thì được xem như một thành công trên mặt số lượng nhưng là một thất bại trên mặt phẩm lượng. Bí truyền ở đây không có nghĩa Thiền chỉ được truyền dạy trong vòng bí mật như kiểu người ta dạy bùa chú hay một môn thuốc gia truyền, cũng không phải Thiền là cái gì bí nhiệm, mang tính thần quyền. Nhưng bởi Thiền vốn là một phương pháp tu tập cao siêu đòi hỏi hành giả phải đủ ý lực và trí lực để đeo đuổi, chứ không phải là một bài toán học, một công thức hay luật tắc để có thể trao truyền và đón nhận một cách dễ dàng qua sự rao giảng giữa công chúng. Thiền là lẽ sống và lẽ sống đó chỉ có giá trị với kẻ nào nắm được nó, tức là sống trong nó, thể nghiệm nó.
Đã có người phê phán rằng Phật giáo đã được phổ cập và đại chúng hóa nhờ vào Mật tông và Tịnh Độ tông, nhưng sự đại chúng hóa này lại cũng là “bước đi sa đọa (xuống dốc) của tinh thần Phật giáo”. Ngày nay, có lẽ Thiền tông cũng rập rình đi theo bước chân đó. Sa đọa ở đây không có nghĩa là một thất bại tội lỗi, mà là một sai lầm bất đắc dĩ trong sự cố gắng phơi bày một cách rộng rãi những gì không thể nói được nhưng vì lòng từ bi, phải nói cho quần chúng được hiểu và đi theo. Từ sai lầm này kéo theo sai lầm kia. Nhất là về phía những thiền sinh với nhân số vụt tăng khá nhanh—những thiền sinh của đại chúng mà lối đi của họ dù khoác mặc dáng vẻ thượng lưu kiêu kỳ nào vẫn không thoát khỏi tâm lý sùng thượng, mê tín của thời kỳ tô-tem, bái vật. Người ta sẽ yêu cầu vị thiền sư giảng giải, phân tích chi li về thiền sao cho dễ hiểu hơn; người ta sẽ đòi hỏi một phương pháp thực tập thiền định sao cho mau được kết quả và thuận lợi hơn; và người ta sẽ phê phán, chê bai, công kích các phương pháp tu tập (pháp môn) khác là đi sai truyền thống (thậm chí là mê tín, tà đạo); người ta bám chặt vào để rồi tôn thờ như vật tổ những gì vị thiền sư nói ra (dù là một câu ta thán về sự mê muội cố chấp của tâm lý chúng sanh), không thích ai nói ngược lại với những gì mình tôn thờ. Người ta tôn kính vị thiền sư thay vì đức Phật; tôn kính chữ Thiền thay vì Pháp; tự tôn kính mình thay vì Tăng. Và sai lầm tai hại nhất là người ta tưởng rằng mình đã có thể nắm bắt được thực tại tuyệt đối (bản thể của thiền) qua những lời truyền giảng của vị thiền sư hay qua sự thông minh lý luận của chính mình trong dăm ba cuốn sách thiền đọc được. Đó là những hiện tượng và là tệ trạng có thật đã từng xảy ra trong giới học và tu thiền. Chê bai, khinh thường những người tu theo pháp môn khác; tự hào mình là kẻ đi đúng đường, kẻ khác lạc đường; vênh váo cho rằng mình, những người cư sĩ tại gia, có thể sáng mắt vượt trội hơn các tăng sĩ trong chốn thiền môn; ngã mạn đem giáo lý thiền để giảng giải cho tăng sĩ vì thấy những vị này chưa hề hé môi nói gì về Thiền; khuyến khích tăng sĩ tu thiền vì thấy các tăng sĩ này không ngồi thiền ở địa điểm và thời gian mà người khác có thể thấy biết được; lập dị ngồi thiền lim dim ở nơi công cộng v.v… Những hiện tượng trên cứ lâu lâu lại xảy ra như một phong trào khi có một vị thiền sư chân chính xuất hiện. (Mà còn xảy ra nhiều hơn khi có một Thế Tôn hay Phật sống giả hiệu ra đời!) Hiện tượng, phong trào, thường cuốn trôi bao người nhẹ dạ, yếu lòng và nhất là những người nông cạn từ trí tuệ đến ý chí. Cho nên, Thiền hiện nay, như đã nói, trở thành một môn học phổ thông (giống như phương pháp ăn gạo lức hay uống nước lạnh để chữa bệnh) mà trình độ cạn cợt nào cũng có thể hiểu, nói và làm được. Điều này khiến ngay cả vị thiền sư chân chính nhất cũng phải dè dặt trong sự giải thích và giảng dạy Thiền cho môn đồ của mình—bởi vì ông ta không bao giờ muốn định nghĩa Thiền, nhưng môn đệ của ông thì lúc nào cũng muốn có câu định nghĩa để phân biệt, để tăng thêm kiến thức, tăng thêm vốn liếng thiền ngữ mà đi rao truyền cho khắp nhân gian.
THIỀN LÀ GÌ?
Có người đến hỏi vị thiền sư: “Thiền là gì?” Vị thiền sư không đáp thẳng, chỉ rót trà mời khách: “Uống trà đi.”
Thiền là dòng sống lặng lẽ của tự tâm và thiền sư là kẻ nắm chắc được dòng sống ấy—thực ra, ngay cả những lời vừa nói, chẳng có lời lẽ dông dài hay đơn giản nào, có thể nói lên được ý nghĩa của thiền nếu không nắm được dòng sống đó.
Thực tại vượt lên trên mọi lý luận. Người ta không thể diễn đạt nó bằng ngôn ngữ vì ngôn ngữ chỉ là sản phẩm của tư tưởng, mà tư tưởng chỉ là con đẻ của ý niệm nhị nguyên đối đãi. Ý niệm luôn luôn tạo ra thế ly cách giữa chủ thể (năng) và đối tượng (sở). “Tôi tu thiền” hàm nghĩa rằng có cái “tôi” ở ngoài “thiền” và có “thiền” ở ngoài cái “tôi”. Tôi và Thiền trở thành hai thực thể đối lập, phân ly. Thể của của thiền thì tuyệt đối, bất nhị (không có hai mà là một thể đồng nhất); còn ý niệm thì tương đối, nhị nguyên. Không làm sao có thể định nghĩa hay diễn đạt cái tuyệt đối bằng ngôn ngữ giới hạn của thế giới tương đối. Nhưng, vì phương tiện, vì dẫn đạo, vị thiền sư buộc lòng phải dùng ngôn ngữ để nói với môn đệ của mình. Tuy nhiên, ngôn ngữ đó, dù được buông ra trong miễn cưỡng, vẫn là một cố gắng để nhắm thẳng vào tâm, gạt bỏ mọi lý luận (trực chỉ nhân tâm). Và như vậy, nó không phải là cái có thể lập lại lần thứ hai cho một người khác. Phổ cập hóa thiền đạo là vô tình giam bản thể vô tận (chân đế) vào thế giới hữu hạn (tục đế). Bám chặt vào một lời dạy hay một phương thức đối trị đã được phổ cập là đang đuổi theo cái bóng mờ của Thiền. Giảng giải, phân tích, mổ xẻ thiền đạo là bắt thực tại đứng dừng một chỗ như một xác khô. Cái gì lặng đứng, khô chết và có thể diễn tả được bằng ngôn ngữ thì không phải là thực tại tuyệt đối (Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh—Lão tử Đạo đức kinh).
PHƯƠNG TIỆN PHÁP MÔN
Thực tại tuyệt đối chỉ có thể cảm nhận, trực nhận hay thể nhập chứ không thể đạt đến bằng suy tư và lý luận quanh co. Nó không phải là tiêu đích hướng về bằng những con đường, những pháp môn. Có chăng chỉ là tâm truyền tâm mà thôi (dĩ tâm truyền tâm).
Pháp môn để vươn tới thực tại tuyệt đối—nếu có thể miễn cưỡng mà nói như vậy—không thể là pháp môn chung cho mọi căn cơ, cho mọi trình độ. Nó chỉ xảy ra một lần duy nhất và hữu hiệu cho một môn đệ nào đó và trong trường hợp nào đó mà thôi. Như thế, không thể nói có pháp môn này cao hơn pháp môn kia, có pháp môn kia chân chính hơn pháp môn này. Kinh Phật nói có tám mươi bốn ngàn pháp môn vì lẽ đó. Người ta có thể nói pháp môn là những phương tiện, những cánh cửa để thể nhập vào chân tâm, vào thực tại tuyệt đối. Nhưng kỳ thực, để nằm trong lòng thực tại thì chỉ có pháp-môn-không- pháp-môn (vô môn quan—cánh cửa không cửa) mới đưa vào được mà thôi. Pháp môn không có cao thấp mà chỉ công hiệu hay không công hiệu. Viên thuốc cảm sẽ có hiệu quả cho một người bị cảm nhưng không có giá trị cho người bị đau bụng. Người bị cảm không thể chê trách người đau bụng sao không chịu uống viên thuốc như mình; còn người đau bụng không chịu uống thuốc cảm thì thôi, cũng không thể nói viên thuốc cảm là vô giá trị, bởi vì nó không công hiệu đối với bệnh của mình nhưng sẽ công hiệu đối với bệnh của kẻ khác. Như thế, ngay cả pháp môn mà người ta gọi là Thiền, cũng chỉ là phương tiện pháp môn như bao nhiêu phương tiện khác. Tiêu đích chưa đạt được thì dựa vào đâu để có thể cho rằng pháp môn của mình là đúng, pháp môn của kẻ khác là sai? Và làm sao có thể khẳng định được rằng một phương pháp nào đó không mang tên là Thiền thì không phải là Thiền?
THIỀN TRONG CỬA THIỀN
Ngày nay, trong những người cư sĩ tại gia theo học thiền, đã có người đến hỏi một tu sĩ ở chùa rằng: “Thầy có tu thiền không? Theo tôi, thiền là pháp môn cao nhất và chân chính nhất của Phật giáo. Sao thầy không hành thiền và hướng dẫn Phật tử tu thiền mà cứ tụng kinh niệm Phật mãi vậy?”
Đó là câu hỏi lố bịch, ấu trĩ, y như người ta hỏi vị bác sĩ rằng: “Này ông bác sĩ, ông có chữa bệnh cho bệnh nhân không? Ông có làm công việc chữa bệnh không?” Bác sĩ có công việc của bác sĩ, tăng sĩ có công việc của tăng sĩ. Công việc hàng ngày của tăng sĩ là tu tập (tức là hành thiền) với mục đích giải thoát giác ngộ như Phật, theo phương pháp mà kinh điển của ngài với sự truyền thừa của các vị tổ sư để lại, cũng như qua sự hướng dẫn trực tiếp của một hay nhiều vị minh sư. Và đặc biệt nhất là qua sự nỗ lực chân chính (chánh tinh tấn) của chính mình.
Tại Nhật Bổn và Trung Hoa, Thiền tông là một trong mười tông phái lớn của Phật giáo (Luật tông, Thiền tông, Mật tông, Tịnh Độ tông, Câu Xá tông, Pháp Tướng tông, Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Thành Thật tông và Thiên Thai tông—Nhật Bổn có thêm hai tông phái khác nữa là Nhật Liên tông hay Pháp Hoa tông và Chân tông hay Tịnh Độ Chân tông). Nhưng ở nước ta, với dung hóa tính của dân tộc Việt Nam, Phật giáo không có sự phân chia tông phái rõ nét. Các tự viện và chùa chiền ở Việt Nam đều được gọi chung là Thiền môn (cửa thiền). Đúng như nhận xét của một vài bậc thức giả trước đây về đặc tính sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam: sinh hoạt trong các chùa Việt Nam dung hợp các pháp môn tu tập của các tông phái lớn mà ở nước khác người ta phân chia rõ rệt. Một tu sĩ hay cư sĩ tại gia Việt Nam có thể chuyên tụng đọc và tìm hiểu kinh Pháp Hoa (Pháp Hoa tông), niệm danh hiệu Phật A Di Đà (Tịnh Độ tông), đọc thần chú (Mật tông) và tọa thiền (Thiền tông) mà không thấy trở ngại gì. Trong một khóa lễ tại các chùa Việt Nam, người ta thấy sự tổng hợp của các thiền ngữ, các câu thần chú và danh hiệu Phật. Sự phân chia tông phái để phát triển là nét đặc thù của Phật giáo Nhật Bổn và Trung Hoa, nhưng sự dung hợp các tông phái cũng chính là chỗ độc sáng của Phật giáo Việt Nam vậy. Do đó, các vị tu sĩ Việt Nam được huấn luyện từ nhỏ trong chùa sẽ không bao giờ thắc mắc hay đặt vấn đề là mình tu Thiền hay tu Tịnh độ. Mục đích chính của việc tu tập là để đạt đến giải thoát, còn pháp môn, tông phái, chỉ là phụ thuộc.
Đã có nhiều cuốn sách nói về Thiền học Việt Nam tuy không phải là đầy đủ nhưng tưởng cũng rất rõ nét. Qua đó người ta thấy ngay cả một chú tiểu ở chùa Việt Nam thường được giáo dục trực tiếp từ cuộc sống thường nhật của vị thầy (thân giáo). Mỗi cử chỉ, lời nói, hành động của chú đều được thầy quan sát và điểm hóa khiến cho đời sống của chú từng giờ từng phút không lúc nào là không phù hợp và hòa nhập với lẽ đạo. Với ba ngàn cung cách và tám vạn đức hạnh chi tiết (tam thiên oai nghi, bát vạn tế hạnh) được vị thầy thân cận nhắc nhở, chỉ giáo, tác phong của chú từ giai đoạn nỗ lực tập trung bước sang thành quả thuần thục thanh thoát lúc nào chính chú cũng không hay biết. Khi chú đặt tách nước lên bàn hơi nặng tay, vị thầy có thể im lặng không quở trách gì mà chỉ cần đặt lại tách nước trên bàn một cách cẩn trọng, nhẹ nhàng, không gây tiếng động. Từ tác phong đi, đứng, nằm, ngồi, cho đến quét nhà, tưới rau, nhất nhất mọi việc chú đều có thểû học được từ nơi vị thầy. Chú không biết là chú đang học và thực hành thiền đạo. Vị thầy cũng không bao giờ nói là ông đã và đang dạy thiền cho chú. Nhưng, mọi động tác của vị thầy, không động tác nào mà không nói lên sự tịch lặng của bản thể. Cả thầy lẫn trò có thể suốt đời sống trong thiền mà không cần phải bàn tán, luận giải gì về thiền cả.
Trải qua trên hai mươi năm hoặc trên nữa, sống trong không khí tịch lặng giải thoát của thiền môn, chú tiểu đó đã trở thành một vị thầy, sớm chiều kinh kệ công phu; ngày thì vì lòng từ bi phải sống với người, tiếp xúc, an ủi vỗ về, hướng dẫn bao kẻ đau khổ, có khi phải tụng đám ma cho người chết mất luôn cả ngày; đêm thì một mình tọa thiền, niệm Phật trong phòng riêng, trên giường nằm, chưa một ngày xao lãng. Từ sáng đến tối, các sinh hoạt của vị thầy ấy không có việc làm nào mà không nằm trong oai nghi tế hạnh, không có việc làm nào nằm ngoài tinh thần và sinh hoạt truyền thống của thiền môn. Lúc đó, chúng ta có cần phải đặt vấn đề với vị thầy ấy là nên tu Thiền hay tu Tịnh Độ chăng? Câu hỏi sẽ làm cho vị thầy ngạc nhiên và mỉm cười. Ngạc nhiên là có thể có một đời sống trong cửa thiền mà không có thiền hay sao? Và mỉm cười để trả lời rằng thực ra không cần phải bàn cãi sôi nổi về cái gì tự nhiên như không khí mà ta đang hít thở. Thiền đối với một tu sĩ trong cửa chùa chẳng khác gì không khí đối với con người. Cần gì phải hỏi lôi thôi, thừa thãi, vô ích!
-----------------------------------
KHÔNG CÓ GÌ ĐỂ CHỨNG ĐẮC (VÔ ĐẮC, VÔ SỞ ĐẮC)
Trước cuộc sống đầy dẫy bất an, nhiều người đã tìm học thiền và cảm thấy được an ổn như được ngồi nghỉ sau những giờ mệt nhọc. Họ bằng lòng với trạng thái ngơi nghỉ đó và cho rằng đã đạt được Thiền. Với họ, giữ cho tâm đừng giao động lăng xăng là đã chứng nghiệm được thực tại rồi. Họ sẽ kết luận rằng thiền là một cái gì đơn giản thôi: lắng lòng vào từng phút giây sinh hoạt thường nhật với một tâm tư thanh thản, nhẹ nhàng rồi sự an lạc sẽ nở hoa ngay lúc đó. Trong khi kẻ khác bận rộn, lo âu, sợ hãi với những quấy nhiễu thường xuyên của nội tâm và ngoại giới, thì họ, những người học thiền thời đại, tìm được sự an lạc và hạnh phúc bằng cái tâm lắng đọng và buông xả. Họ cho sự an lạc và hạnh phúc đó là tiêu đích tối hậu mà họ đã đạt đến bằng một phương pháp chẳng mấy khó khăn. Thực ra, họ quên rằng vị thiền sư của họ không phải đạt đạo và tìm thấy sự an lạc chỉ bằng những phương pháp căn bản đó. Họ quên rằng vị thiền sư của họ đã trải qua thời gian tu tập khá lâu với một hoàn cảnh thuận lợi trong cửa thiền. Họ quên rằng tâm tư của vị thiền sư của họ từ mấy chục năm về trước cho đến giờ phút này đều hướng về tiêu đích giải thoát giác ngộ chứ không phải chỉ học và hành thiền để làm lắng dịu những bung xung tâm lý như họ. Họ quên rằng khi vị thiền sư giác ngộ buông lời ra, lời nào cũng khế hợp với thiền đạo, nhưng không phải vì vậy mà những lời ấy trở thành thiền ngữ khi được lặp lại bởi một kẻ phàm phu tục tử chưa sống nổi một ngày trọn vẹn trong cửa thiền. Họ quên rằng vị thiền sư giác ngộ nhìn thấy sự mầu nhiệm của vạn hữu là vì ông đang đứng trong lòng thực tại và nhìn bằng con mắt trí tuệ siêu việt, chứ không phải chỉ nhìn bằng con mắt thịt rồi mô phỏng, nhái lại và cuối cùng sẽ tưởng tượng ra sự mầu nhiệm của muôn loài. Đúng ra, những tâm lý khinh an, hạnh phúc mà họ (những thiền sinh hời hợt) có được cũng là một thành công nên khích lệ, nhưng đó không phải là mục đích tối hậu của Thiền. Thiền quả là điều rất đơn giản như một vị thiền sư đã nói “Bình thường tâm thị đạo” (giữ tâm bình thường tức là đạo vậy). Nhưng nó không quá đơn giản đến độ chỉ trong câu nói bình thường ấy. Vị thiền sư đắc đạo không cần phải sắp đặt hay uốn lưỡi trước khi nói vậy mà nói điều gì ra cũng khế hợp với sự tịch tịnh của bản thể. Nhưng kẻ bình phàm chỉ mới tập tành chuyện hít thở trong vài tháng hay đôi ba năm, hay mười năm, hai chục năm, thì dù có lặp đi lặp lại câu nói của thiền sư đến triệu lần cũng không dính nhập gì đến thiền cả; và không phải những hạnh phúc đơn giản kiểu được Phật sống rờ đầu mà có, hay nhắm mắt tưởng tượng mà có, là hạnh phúc vĩnh cửu của kẻ đã thực chứng thiền đạo. Bởi vì, thiền không phải là nghỉ mệt. Thiền không phải là phó thác niềm tin và ý chí của mình cho bất kỳ đạo sư nào khác (ngay cả bậc vô thượng sư duy nhất là đức Phật). Thiền không phải là thuốc an thần. Thiền không ru ngủ người ta bằng những ảo giác hạnh phúc gặt hái từ nỗ lực trấn an phiền não với một tâm trí trống rỗng. Giữ cho tâm được yên nghỉ để giải tỏa những căng thẳng của tâm lý là điều mà các bác sĩ tâm thần Tây phương đã từng hướng dẫn, chữa trị cho bệnh nhân của họ. Khi vị thiền sư dạy dỗ môn đồ của mình phương pháp trấn an phiền não nói trên, ông biết đó chỉ là phương tiện tạm thời để đối trị cho căn bệnh của những kẻ sơ cơ mà tâm lý đang còn quá vọng động (chưa bắt kịp giai đoạn ông còn làm chú tiểu ở chùa), và ông đang tạm thời đóng vai một bác sĩ tâm thần. Phương pháp không phải chỉ có thế và mục tiêu không phải chỉ có thế. Sự chứng nhập thực tại tuyệt đối khiến ông đeo đuổi sự tìm tòi một phương pháp hữu hiệu để dẫn đạo môn đồ của mình ít ra cũng phải có được một kẻ (chưa dám nghĩ tới con số hai) chứng nhập thực tại ấy như mình chứ không phải chỉ tìm vui và bằng lòng với cái hạnh phúc tạm thời nhỏ nhoi trong một vài giờ thực tập.
Thực ra, thực tại tuyệt đối chỉ có thể đạt được bằng trí tuệ không phân biệt (vô phân biệt trí). Trong đó, không có những ràng buộc hay biến động cần vượt qua, không có cái tâm được kềm chế và yên nghỉ, không có phiền não để giải trừ, không có thực tại nhiệm mầu nào để đạt đến, không có trí tuệ để chứng ngộ. Ta và thế giới là một thực thể bất phân và tất cả đều cùng trong một thể vắng lặng như nhiên, không biên giới, không ly cách. Chỉ có trí tuệ siêu việt ấy mới đưa đến giải thoát và chỉ có trí tuệ ấy mới là sự nghiệp duy nhất của kẻ học thiền (duy tuệ thị nghiệp). Không phải chỉ giữ tâm an nhiên nhẹ nhàng rồi trí tuệ siêu việt và giải thoát tối hậu cùng phát sinh. Kinh điển nói đức Phật phải tu ba a-tăng-kỳ kiếp mới chứng ngộ giải thoát được. Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói ba a-tăng-kỳ kiếp đó chính là tham, sân, si chứ chẳng chi khác. Đơn giản quá. Vậy chỉ cần diệt tham, sân, si là thành Phật tức khắc. Nhưng lời Tổ dù nói lại cho thành đơn giản cũng chẳng khác chi lời Phật cả, bởi vì kẻ bình phàm đầy mê chấp muốn dẹp cho tiêu sạch tham, sân, si thì quả là cần ba a-tăng-kỳ kiếp vậy. Đang theo học thiền, các vị tân thiền sinh thời đại đã vượt qua được một a-tăng-kỳ kiếp nào chưa mà có giải thoát an lạc và giác ngộ sớm quá vậy? Phải chăng sự giác ngộ và an lạc nhất thời, nhỏ nhoi mà ta có được nhờ nghe giảng hoặc thực tập trong vài ngày là tiêu đích mà đức Phật và các vị tổ sư, thiền sư muốn trao đến các thế hệ sau? Kinh điển dạy ta đừng vội vui mừng ôm chặt các thành tựu nhỏ nhoi đó. Nhìn xét lại chính mình, nếu thấy còn một tí tham, sân, si vướng lại là biết ta chưa tiến được đến đâu. Vậy cũng cần vài a-tăng-kỳ kiếp để tu thêm rồi.
Chưa có trí tuệ siêu việt (Bát Nhã trí) thì chưa có giải thoát thực sự. Mà những kẻ đã chứng ngộ, giải thoát thực sự rồi cũng sẽ thấy rằng, thật ra không có gì cần phải thoát ra (bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai?—Lục Tổ Huệ Năng) và cũng không có trí tuệ nào để chứng đắc (vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố—Bát Nhã Tâm Kinh). Có giải thoát để đạt được thì đó không phải là giải thoát tối hậu; có trí tuệ để thẩm nhập thì đó không phải là trí tuệ vô biên. Vậy thì thật đáng ngờ cái hạnh phúc và trí tuệ mà hàng trăm, hàng ngàn người chỉ nhờ nhái lại lời vị thiền sư nói là đã đạt được! Những cái vô biên vô tận ấy tất cả chúng ta đều có nhưng không phải mọi người đều nắm được hay xài được qua ngôn ngữ văn tự hay chỉ qua một giờ đồng hồ giữ cho thân tâm được nghỉ ngơi.
Con người thường có khuynh hướng vươn tới cái gì siêu tuyệt cho nên dễ bị lôi cuốn và bám víu vào những phương pháp, những lý lẽ cao siêu mầu nhiệm. Cho rằng lý tánh tuyệt đối không thể đạt đến cũng sai; cho rằng quá dễ đạt đến cũng sai; mà nói năng luận bàn cũng sai (động ngữ tắc quai—buông lời ra là đã sai lầm rồi). Vì vậy, ở đây chỉ nhắc nhở nhau, chia xẻ với nhau điều mà chúng ta cùng hướng tới. Tất nhiên là phải bước tới, nhanh hay chậm, bằng cách nào, tùy theo căn cơ, trình độ và hoàn cảnh mỗi người. Nhưng bám víu vào lối đi riêng của mình để công kích, chê bai kẻ khác là điều buồn cười, nông cạn của những kẻ chưa thấm được một giọt giải thoát nào của đại dương tư tưởng nhà Phật. Bằng con mắt giác ngộ, vị thiền sư có thể nhìn thấy khuyết điểm của những phàm tăng, nhưng những kẻ học thiền chúng ta thì không nên dựa vào đó mà công kích, khinh thị để rồi vương nghiệp dữ, chướng ngại cho đường học đạo.
Xin chép tặng bạn lời đức Phật trong kinh Tứ Thập Nhị Chương để kết thúc bài viết này vậy:
“Ta xem sự thiền định như là một cột trụ trên núi cao và niết-bàn là cơn mộng du giữa ban ngày. Ta xem những lời phán quyết về đúng và sai như là sự uốn mình nhảy múa của một con rồng và sự lên xuống của đức tin là dấu vết của bốn mùa để lại.”
Cư Sỹ Vĩnh Hảo
http://buddhahome.net/phatphap/thientong/songthien.htm
24 tháng 5, 2013
23 tháng 5, 2013
Cho Đi Và Nhận Lại
Có đôi khi bạn cảm thấy cuộc đời này thật bất công! Bạn đã cho đi quá nhiều mà không nhận lại được bao nhiêu…. Vấn đề thật ra rất đơn giản. Khi bạn cho đi là bạn đã nhận được nhiều hơn thế, đó là những niềm vui vô hình mà bạn không chạm vào được.
Bạn thắc mắc rằng tại sao khi người khác buồn thì bạn luôn ở bên cạnh họ để xoa dịu vết thương lòng cho họ , rồi đến khi họ tìm lại được niềm vui họ sẽ lại quên bạn . Còn bạn , khi bạn buồn ai sẽ là người lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng của bạn đây ?
Thiết nghĩ , cuộc đời này là một vòng tròn và luôn cân bằng . Không có sự bất công nào với bạn ở đây hết , có hay chăng sự nhận lại từ người khác chỉ là đến sớm hay muộn với bạn hoặc của những người khác với bạn mà thôi và cái quan trọng là bạn có mở rộng lòng mình để đón nhận nó hay không !
Tất cả chúng ta sinh ra và tồn tại trên đời này đều mắc nợ nhau . Cho đi , nhận lại là hình thức luân phiên để trả nợ lẫn nhau . Khi bạn cho đi những điều tốt đẹp thì điều quan trọng nhất là bạn nhận lại được sự bình yên trong tâm hồn . Bạn phải hiểu rằng cho đi không có nghĩa là có sự toan tính !
Tất cả mọi thứ chúng ta làm cho nhau đều có sự vay trả , đôi khi là hữu hình mà cũng có khi là vô hình .
Nhưng dù biết cuộc sống đôi khi không được như ý muốn của ta , bạn hãy cứ cho đi bởi cho đi là bạn đã yêu thương lấy chính bản thân mình , đã hòa vào dòng chảy của cuộc sống , của đời người !
Đời người như dòng sông , như cuộc sống hòa tan với thời gian luôn trôi đi nhưng không ngừng đổi mới , mãi biến chuyển nhưng muôn đời vẫn thế . Tất cả những dòng sông đều sẽ đổ về biển , và biển bao la lại rót vào những dòng sông mênh mông tràn đầy , mạch luân lưu không ngừng nghỉ ấy là cuộc sống . Sẽ không bao giờ có cái chết vì nơi tận cùng cũng là khởi nguồn cho những mầm sống mới !
Cuộc đời ấy , có bao lâu mà hững hờ !
ÁNH NGUYỆT sưu tầm
Nguồn: http://www.hatgiongtamhon.info/
Bạn thắc mắc rằng tại sao khi người khác buồn thì bạn luôn ở bên cạnh họ để xoa dịu vết thương lòng cho họ , rồi đến khi họ tìm lại được niềm vui họ sẽ lại quên bạn . Còn bạn , khi bạn buồn ai sẽ là người lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng của bạn đây ?
Thiết nghĩ , cuộc đời này là một vòng tròn và luôn cân bằng . Không có sự bất công nào với bạn ở đây hết , có hay chăng sự nhận lại từ người khác chỉ là đến sớm hay muộn với bạn hoặc của những người khác với bạn mà thôi và cái quan trọng là bạn có mở rộng lòng mình để đón nhận nó hay không !
Tất cả chúng ta sinh ra và tồn tại trên đời này đều mắc nợ nhau . Cho đi , nhận lại là hình thức luân phiên để trả nợ lẫn nhau . Khi bạn cho đi những điều tốt đẹp thì điều quan trọng nhất là bạn nhận lại được sự bình yên trong tâm hồn . Bạn phải hiểu rằng cho đi không có nghĩa là có sự toan tính !
Tất cả mọi thứ chúng ta làm cho nhau đều có sự vay trả , đôi khi là hữu hình mà cũng có khi là vô hình .
Nhưng dù biết cuộc sống đôi khi không được như ý muốn của ta , bạn hãy cứ cho đi bởi cho đi là bạn đã yêu thương lấy chính bản thân mình , đã hòa vào dòng chảy của cuộc sống , của đời người !
Đời người như dòng sông , như cuộc sống hòa tan với thời gian luôn trôi đi nhưng không ngừng đổi mới , mãi biến chuyển nhưng muôn đời vẫn thế . Tất cả những dòng sông đều sẽ đổ về biển , và biển bao la lại rót vào những dòng sông mênh mông tràn đầy , mạch luân lưu không ngừng nghỉ ấy là cuộc sống . Sẽ không bao giờ có cái chết vì nơi tận cùng cũng là khởi nguồn cho những mầm sống mới !
Cuộc đời ấy , có bao lâu mà hững hờ !
ÁNH NGUYỆT sưu tầm
Nguồn: http://www.hatgiongtamhon.info/
17 tháng 5, 2013
HT. Thích Trí Tịnh dạy về nhất tâm, tinh tấn và chuyển hóa vọng niệm
Đại lão Hoà thượng Thích Trí Tịnh sinh năm 1917, được suy cử Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN từ năm 1984 đến nay, là một bậc Tòng Lâm thạch trụ, đã phiên dịch nhiều bộ kinh lớn, khiến cho giáo nghĩa Đại thừa được lưu thông, Phật pháp được lưu truyền trong tứ chúng. Hoà thượng tinh thông cả thiền giáo, là tấm gương sáng, bậc chân tu sáng ngời đạo hạnh trong lòng Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, là bậc thầy mẫu mực của Tịnh tông để các liên hữu cùng noi bước.
Các bậc tổ sư thường dạy đồ chúng cách tâm niệm để làm phương châm hành trì. Xin Sư ông cho chúng con một lời khuyên dưới hình thức một lời tâm niệm?
Người xưa thường nói: “Sanh tử sự đại” nhưng mình đã quen sống trong sanh tử, ai cũng vậy hết, nên không thấy quan trọng. Kỳ thật, lấy mắt đạo mà nhìn vào thì đó là việc lớn của mọi người, của chúng sanh. Đã lăn lóc mãi trong nhiều đời, hiện tại nếu không cố gắng thì những đời sau cũng vẫn lẩn quẩn trong vũng lầy sanh tử mà thôi.
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sinh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sanh tử luân hồi. Vì thế, gặp được rồi thì mình phải cố gắng để vững bền trong chánh pháp. Cho nên, Phật dạy tất cả đều phải tinh tấn, nhất tâm. Nhưng chúng ta lại có cái lỗi là luôn phóng dật, giãi đãi. Trong Luật, những khi có việc gì thì các vị Trưởng lão, các vị Đại đức đều khuyên nhắc: “Phải tinh tấn, chớ phóng dật”. Chỉ có hai điều đó thôi! Phóng dật ở thân khẩu thì dễ biết, còn ở tâm ý thì rất khó biết. Hễ duyên theo lục trần đều là phóng dật. Phóng dật thì trôi theo sanh tử. Tinh tấn thì đạt Niết-bàn. Người tu hành phải tinh tấn thì mọi khó khăn đều sẽ vượt qua, mọi công đức sẽ đạt được.
Trong một số bài giảng, Sư ông thỉnh thoảng sử dụng từ “tu mót” để khích lệ tứ chúng tinh tấn tu tập. Xin Sư ông giải thích thêm ý nghĩa của tu mót là gì?
Các bậc tổ đức ngày xưa khi vào trong đạo liền tìm cách để được định và tuệ. Chúng ta trong thời mạt pháp, lăn lóc trong ồn náo, nhiều chuyện, nhiều việc, nhiều người nên tôi thường nhắc nhở sự tu hành của mình giống như là “tu mót”. Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua. Gặp việc thì làm việc. Rảnh việc thì nhiếp tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được một phút thì tốt một phút. Được một giờ thì tốt một giờ. Thế nên đừng bỏ qua việc tu mót.
Ví như những người ở quê ngày xưa đi mót lúa, tuy chỉ mót lúa nhưng vẫn đủ lúa gạo để ăn, vẫn nuôi thân, nuôi gia đình được. Mình đây cũng vậy, nếu cố gắng mót thì cũng được đầy đủ đạo pháp, nuôi lớn pháp thân, huệ mạng của chính mình. Nếu huynh đệ thực hành một thời gian rồi nghiệm lại sẽ thấy “tu mót” lại nhiều hơn thời khoá tu hành chính. Vì thế nếu bỏ qua tu mót thì bỏ phí rất nhiều thời gian.
Ai cũng có công việc hết, nhưng rồi cũng có xen kẽ, lúc tâm trí mình được rảnh rang thì gắng giữ ba điều: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được vậy, phóng dật bớt dần lại, tương ưng với phần tinh tấn. Nếu trọn đời mình sống trong chánh pháp của đức Phật thì đường đạo mỗi ngày sẽ mỗi tăng tiến.
Sư ông vừa dạy niệm Tam bảo. Vậy trọng tâm của pháp niệm này là gì?
Ai nấy cần phải nhất tâm và chánh niệm. Chánh niệm đứng đầu là ba niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đừng để nó rời. Niệm Phật thì niệm hồng danh, niệm tướng hảo, niệm công đức. Niệm Pháp thì phải thuộc kinh, vì nhớ đến kinh pháp tức là niệm Pháp. Niệm Tăng thì ở nơi đức Quán Thế Âm Bồ-tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát hay Phổ Hiền Bồ-tát, cho đến Di Lặc Bồ-tát, Địa Tạng Bồ-tát đều là Bồ-tát Tăng đáng để cho chúng ta nghĩ đến các ngài và công hạnh của các ngài. Nếu tâm mình thường nghĩ tưởng như vậy thì bớt phóng dật, tất được tinh tấn. Tinh tấn dần từ một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến nhiều tháng nhiều năm thì lần lần cội bồ-đề mà mình vun trồng sẽ càng thêm to lớn, vững mạnh.
Làm thế nào để vượt qua các vọng niệm?
Vọng tâm, vọng niệm dễ sanh. Những phiền não, nghiệp chướng cũng dễ phát khởi. Do vì cảnh duyên bên ngoài trợ giúp mấy thứ đó phát triển, tăng trưởng. Mình ở trong thời mạt pháp, lấy sức người để tu hành cũng giống như ở nơi giữa dòng sông, chẳng những là nước mà lại có sóng lớn nữa, luôn luôn lúc nào cũng có sóng hết. Trong đó phải bơi lội thì việc đó cần cố gắng lắm mới được. Có cố gắng mới thành công.
Do đó, cần lập nguyện. Chí nguyện lớn sẽ giúp mình thêm cố gắng và vững chãi hơn ở đường đạo. Chí nguyện phải thật vững để giúp cho nghị lực, vì có chí nguyện ắt có nghị lực. Như thế mới vững vàng được ở nơi những luồng sóng dập dồn, nếu sơ suất liền bị chìm. Nói tiếng chìm, huynh đệ cần phải suy nghĩ cho kỹ.
Ở cõi ngũ trược này, phát chí nguyện phải dũng mãnh, nghị lực phải dũng mãnh. Ở trong cái khó mà tu tập thì hạnh đức cao vời. Khó thì dễ hư nhưng thành tựu được thì công cao. Do đó, trong kinh Duy Ma Cật nói: “Bồ-tát ở nơi cõi đời này, có những công đức mà nơi cõi khác không có được” chính là ý này vậy.
Huynh đệ biết khó thì phải cố gắng. Lập chí lập nguyện cố gắng vượt lên. Luôn luôn kiểm soát tâm ý của mình lẫn cả về hành động và lời nói. Kiểm soát nếu thấy không đúng thì sửa lại cho đúng. Ai cũng đều có lỗi, nhưng có lỗi mà biết sửa đổi thì thành tốt. Mong rằng chư huynh đệ đều nhất tâm, tinh tấn tu hành!
Khi tu sĩ chúng con làm Phật sự thì phải tiếp duyên. Vậy, tiếp duyên thế nào để Phật sự thành công mà không bị vướng dính duyên trần?
Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả, rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn chịu để vượt qua. Không phải hàng xuất gia không bị dính mắc vào quyền lợi. Huống nữa, chính quyền lợi đó sẽ đem đến những tai hoạ cho thân mình. Mấy huynh đệ tuổi còn trẻ, đường còn dài, phải lưu ý lắm mới được.
Người đời có sự nghiệp của người đời. Người xuất gia có sự nghiệp của người xuất gia. Chỉ là lớn hay nhỏ thôi. Tuy vậy, mình nhớ tạo sự nghiệp phải được như con nhện, đừng như con tằm nhả tơ rồi phải chết trong kén của nó. Tôi chỉ luôn luôn mong cầu công đức. Tôi khuyên các huynh đệ không mong cầu những cái lợi như người đời thường nghĩ. Cái lợi của người tu chính là thiện căn công đức, đâu phải là tiền bạc, vật chất. Mấy huynh đệ phải nhớ mình ở chỗ nào, nơi nào cũng phải gây tạo thiện căn công đức, đừng chạy theo những vật chất bên ngoài.
Tôi luôn làm theo khẩu hiệu ngầm của riêng mình. Những việc đúng pháp, về mặt tinh thần hoặc vật chất thì “không cầu cũng không từ”. Nghĩa là không tìm cầu cũng không từ chối. Đây là khẩu hiệu để tôi lập thân. Chẳng hạn, nếu có duyên cất chùa, mà cái duyên đó nó tự đến, nhận thấy đáng thì không từ chối. Cho đến tứ sự cúng dường cũng vậy, những vật gì không dùng nhưng cũng không từ chối. Mình không sử dụng thì chuyển đến người khác, cho đại chúng dùng.
Nếu làm việc gì, dù có cái lợi lớn trước mắt nhưng khi làm có cái hại xen vô trong hiện tại hoặc tương lai thì quyết không làm, không tham dự. Ví dụ như danh vị, tiền bạc, lời khen tặng … Nếu được lợi thì phải xem có cái hại hay không. Nếu có thì phải tránh xa. Thấy hại mà vẫn chạy vô thì bị nghiệp dẫn.
Tôi thấy việc tu hành đã trải qua mấy mươi năm, nhờ ứng dụng những điều trên mà không bị tổn thất, chịu cái hại lớn, mà lại thấy việc nhẹ nhàng, thảnh thơi. Tôi đã nói tận đáy lòng. Mấy huynh đệ thấy đúng lý thì nên bắt chước làm theo, để sự tu hành không bị vướng kẹt, thiện căn công đức luôn được tăng trưởng. Đó là điều tôi muốn ở tất cả mấy huynh đệ.
Xin Sư ông cho chúng con một lời khuyên để chúng con áp dụng tu hành!
Ngày tháng trôi qua mau lắm, một năm không mấy chốc mà đã hết rồi. Già, bệnh, chết mãi đeo theo người, không chừa ai hết. Mong các huynh đệ ai nấy đối với pháp của Phật, không biết nhiều thì cũng biết ít, noi theo chỗ hiểu biết của mình mà tinh tấn tu hành, luôn luôn nghĩ đến vô thường, sanh tử. Thân này tuy không bền lâu, mình phải cố gắng nương theo thân người này để tu hành, vượt qua biển sanh tử, lên đến bờ giải thoát. Nếu chưa được vậy thì cũng làm nhân duyên thù thắng cho những đời sau, đạo tâm kiên cố, căn lành tăng trưởng.
Thời gian qua thật mau, đừng để luống uổng, phải thường nghĩ vô thường. Nhớ lại thuở trước, chỗ mình đang ngồi, đang quỳ ở đây là nơi mấy em cháu (bây giờ cũng sáu, bảy mươi tuổi rồi) đứng hái trái sim, thì mấy huynh đệ biết nó thuộc rừng rú. Rồi mình khai hoang, cất chùa. Thấm thoát cây gỗ của chùa cũng mục. Từ đó, biết rằng thời gian trôi mau lắm, năm sáu chục năm thoáng chốc đã qua. Vì vậy, nên nhớ lời Phật dạy, phải luôn nghĩ đến vô thường. Thân này còn đây, ngày mai không bảo đảm.
Pháp của Phật rõ ràng, chỉ ở nơi mình có chịu làm hay không chịu làm đó thôi. Nên gắng tinh tấn giữ đạo tu hành. Cầu mong mấy huynh đệ căn lành mỗi ngày thêm lớn, công đức mỗi ngày tăng trưởng.
Chúng con thành kính tri ân Sư ông đã khai tâm mở trí chúng con. Chúng con xin y giáo phụng hành.
Các bậc tổ sư thường dạy đồ chúng cách tâm niệm để làm phương châm hành trì. Xin Sư ông cho chúng con một lời khuyên dưới hình thức một lời tâm niệm?
Người xưa thường nói: “Sanh tử sự đại” nhưng mình đã quen sống trong sanh tử, ai cũng vậy hết, nên không thấy quan trọng. Kỳ thật, lấy mắt đạo mà nhìn vào thì đó là việc lớn của mọi người, của chúng sanh. Đã lăn lóc mãi trong nhiều đời, hiện tại nếu không cố gắng thì những đời sau cũng vẫn lẩn quẩn trong vũng lầy sanh tử mà thôi.
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sinh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sanh tử luân hồi. Vì thế, gặp được rồi thì mình phải cố gắng để vững bền trong chánh pháp. Cho nên, Phật dạy tất cả đều phải tinh tấn, nhất tâm. Nhưng chúng ta lại có cái lỗi là luôn phóng dật, giãi đãi. Trong Luật, những khi có việc gì thì các vị Trưởng lão, các vị Đại đức đều khuyên nhắc: “Phải tinh tấn, chớ phóng dật”. Chỉ có hai điều đó thôi! Phóng dật ở thân khẩu thì dễ biết, còn ở tâm ý thì rất khó biết. Hễ duyên theo lục trần đều là phóng dật. Phóng dật thì trôi theo sanh tử. Tinh tấn thì đạt Niết-bàn. Người tu hành phải tinh tấn thì mọi khó khăn đều sẽ vượt qua, mọi công đức sẽ đạt được.
Trong một số bài giảng, Sư ông thỉnh thoảng sử dụng từ “tu mót” để khích lệ tứ chúng tinh tấn tu tập. Xin Sư ông giải thích thêm ý nghĩa của tu mót là gì?
Các bậc tổ đức ngày xưa khi vào trong đạo liền tìm cách để được định và tuệ. Chúng ta trong thời mạt pháp, lăn lóc trong ồn náo, nhiều chuyện, nhiều việc, nhiều người nên tôi thường nhắc nhở sự tu hành của mình giống như là “tu mót”. Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua. Gặp việc thì làm việc. Rảnh việc thì nhiếp tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được một phút thì tốt một phút. Được một giờ thì tốt một giờ. Thế nên đừng bỏ qua việc tu mót.
Ví như những người ở quê ngày xưa đi mót lúa, tuy chỉ mót lúa nhưng vẫn đủ lúa gạo để ăn, vẫn nuôi thân, nuôi gia đình được. Mình đây cũng vậy, nếu cố gắng mót thì cũng được đầy đủ đạo pháp, nuôi lớn pháp thân, huệ mạng của chính mình. Nếu huynh đệ thực hành một thời gian rồi nghiệm lại sẽ thấy “tu mót” lại nhiều hơn thời khoá tu hành chính. Vì thế nếu bỏ qua tu mót thì bỏ phí rất nhiều thời gian.
Ai cũng có công việc hết, nhưng rồi cũng có xen kẽ, lúc tâm trí mình được rảnh rang thì gắng giữ ba điều: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được vậy, phóng dật bớt dần lại, tương ưng với phần tinh tấn. Nếu trọn đời mình sống trong chánh pháp của đức Phật thì đường đạo mỗi ngày sẽ mỗi tăng tiến.
Sư ông vừa dạy niệm Tam bảo. Vậy trọng tâm của pháp niệm này là gì?
Ai nấy cần phải nhất tâm và chánh niệm. Chánh niệm đứng đầu là ba niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đừng để nó rời. Niệm Phật thì niệm hồng danh, niệm tướng hảo, niệm công đức. Niệm Pháp thì phải thuộc kinh, vì nhớ đến kinh pháp tức là niệm Pháp. Niệm Tăng thì ở nơi đức Quán Thế Âm Bồ-tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát hay Phổ Hiền Bồ-tát, cho đến Di Lặc Bồ-tát, Địa Tạng Bồ-tát đều là Bồ-tát Tăng đáng để cho chúng ta nghĩ đến các ngài và công hạnh của các ngài. Nếu tâm mình thường nghĩ tưởng như vậy thì bớt phóng dật, tất được tinh tấn. Tinh tấn dần từ một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến nhiều tháng nhiều năm thì lần lần cội bồ-đề mà mình vun trồng sẽ càng thêm to lớn, vững mạnh.
Làm thế nào để vượt qua các vọng niệm?
Vọng tâm, vọng niệm dễ sanh. Những phiền não, nghiệp chướng cũng dễ phát khởi. Do vì cảnh duyên bên ngoài trợ giúp mấy thứ đó phát triển, tăng trưởng. Mình ở trong thời mạt pháp, lấy sức người để tu hành cũng giống như ở nơi giữa dòng sông, chẳng những là nước mà lại có sóng lớn nữa, luôn luôn lúc nào cũng có sóng hết. Trong đó phải bơi lội thì việc đó cần cố gắng lắm mới được. Có cố gắng mới thành công.
Do đó, cần lập nguyện. Chí nguyện lớn sẽ giúp mình thêm cố gắng và vững chãi hơn ở đường đạo. Chí nguyện phải thật vững để giúp cho nghị lực, vì có chí nguyện ắt có nghị lực. Như thế mới vững vàng được ở nơi những luồng sóng dập dồn, nếu sơ suất liền bị chìm. Nói tiếng chìm, huynh đệ cần phải suy nghĩ cho kỹ.
Ở cõi ngũ trược này, phát chí nguyện phải dũng mãnh, nghị lực phải dũng mãnh. Ở trong cái khó mà tu tập thì hạnh đức cao vời. Khó thì dễ hư nhưng thành tựu được thì công cao. Do đó, trong kinh Duy Ma Cật nói: “Bồ-tát ở nơi cõi đời này, có những công đức mà nơi cõi khác không có được” chính là ý này vậy.
Huynh đệ biết khó thì phải cố gắng. Lập chí lập nguyện cố gắng vượt lên. Luôn luôn kiểm soát tâm ý của mình lẫn cả về hành động và lời nói. Kiểm soát nếu thấy không đúng thì sửa lại cho đúng. Ai cũng đều có lỗi, nhưng có lỗi mà biết sửa đổi thì thành tốt. Mong rằng chư huynh đệ đều nhất tâm, tinh tấn tu hành!
Khi tu sĩ chúng con làm Phật sự thì phải tiếp duyên. Vậy, tiếp duyên thế nào để Phật sự thành công mà không bị vướng dính duyên trần?
Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả, rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn chịu để vượt qua. Không phải hàng xuất gia không bị dính mắc vào quyền lợi. Huống nữa, chính quyền lợi đó sẽ đem đến những tai hoạ cho thân mình. Mấy huynh đệ tuổi còn trẻ, đường còn dài, phải lưu ý lắm mới được.
Người đời có sự nghiệp của người đời. Người xuất gia có sự nghiệp của người xuất gia. Chỉ là lớn hay nhỏ thôi. Tuy vậy, mình nhớ tạo sự nghiệp phải được như con nhện, đừng như con tằm nhả tơ rồi phải chết trong kén của nó. Tôi chỉ luôn luôn mong cầu công đức. Tôi khuyên các huynh đệ không mong cầu những cái lợi như người đời thường nghĩ. Cái lợi của người tu chính là thiện căn công đức, đâu phải là tiền bạc, vật chất. Mấy huynh đệ phải nhớ mình ở chỗ nào, nơi nào cũng phải gây tạo thiện căn công đức, đừng chạy theo những vật chất bên ngoài.
Tôi luôn làm theo khẩu hiệu ngầm của riêng mình. Những việc đúng pháp, về mặt tinh thần hoặc vật chất thì “không cầu cũng không từ”. Nghĩa là không tìm cầu cũng không từ chối. Đây là khẩu hiệu để tôi lập thân. Chẳng hạn, nếu có duyên cất chùa, mà cái duyên đó nó tự đến, nhận thấy đáng thì không từ chối. Cho đến tứ sự cúng dường cũng vậy, những vật gì không dùng nhưng cũng không từ chối. Mình không sử dụng thì chuyển đến người khác, cho đại chúng dùng.
Nếu làm việc gì, dù có cái lợi lớn trước mắt nhưng khi làm có cái hại xen vô trong hiện tại hoặc tương lai thì quyết không làm, không tham dự. Ví dụ như danh vị, tiền bạc, lời khen tặng … Nếu được lợi thì phải xem có cái hại hay không. Nếu có thì phải tránh xa. Thấy hại mà vẫn chạy vô thì bị nghiệp dẫn.
Tôi thấy việc tu hành đã trải qua mấy mươi năm, nhờ ứng dụng những điều trên mà không bị tổn thất, chịu cái hại lớn, mà lại thấy việc nhẹ nhàng, thảnh thơi. Tôi đã nói tận đáy lòng. Mấy huynh đệ thấy đúng lý thì nên bắt chước làm theo, để sự tu hành không bị vướng kẹt, thiện căn công đức luôn được tăng trưởng. Đó là điều tôi muốn ở tất cả mấy huynh đệ.
Xin Sư ông cho chúng con một lời khuyên để chúng con áp dụng tu hành!
Ngày tháng trôi qua mau lắm, một năm không mấy chốc mà đã hết rồi. Già, bệnh, chết mãi đeo theo người, không chừa ai hết. Mong các huynh đệ ai nấy đối với pháp của Phật, không biết nhiều thì cũng biết ít, noi theo chỗ hiểu biết của mình mà tinh tấn tu hành, luôn luôn nghĩ đến vô thường, sanh tử. Thân này tuy không bền lâu, mình phải cố gắng nương theo thân người này để tu hành, vượt qua biển sanh tử, lên đến bờ giải thoát. Nếu chưa được vậy thì cũng làm nhân duyên thù thắng cho những đời sau, đạo tâm kiên cố, căn lành tăng trưởng.
Thời gian qua thật mau, đừng để luống uổng, phải thường nghĩ vô thường. Nhớ lại thuở trước, chỗ mình đang ngồi, đang quỳ ở đây là nơi mấy em cháu (bây giờ cũng sáu, bảy mươi tuổi rồi) đứng hái trái sim, thì mấy huynh đệ biết nó thuộc rừng rú. Rồi mình khai hoang, cất chùa. Thấm thoát cây gỗ của chùa cũng mục. Từ đó, biết rằng thời gian trôi mau lắm, năm sáu chục năm thoáng chốc đã qua. Vì vậy, nên nhớ lời Phật dạy, phải luôn nghĩ đến vô thường. Thân này còn đây, ngày mai không bảo đảm.
Pháp của Phật rõ ràng, chỉ ở nơi mình có chịu làm hay không chịu làm đó thôi. Nên gắng tinh tấn giữ đạo tu hành. Cầu mong mấy huynh đệ căn lành mỗi ngày thêm lớn, công đức mỗi ngày tăng trưởng.
Chúng con thành kính tri ân Sư ông đã khai tâm mở trí chúng con. Chúng con xin y giáo phụng hành.
Thượng Tọa Thích Hoằng Tri thực hiện
14 tháng 5, 2013
Mấy dòng tự sự
Chiều! những vạt nắng cuối ngày còn chút níu kéo, bầy chim bay vội vàng về tổ lúc hoàng hôn buông xuống. Dòng người cũng tìm đường trở về nơi khởi đầu giấc mơ. Tôi thả bộ trên con đường đất đỏ thân quen dẫn ra con sông nhỏ, trong nỗi nhớ của một thời quá vãng. Nhớ cái thời chiều mô anh em cũng rủ nhau lên đồi Vọng Cảnh ngắm hoàng hôn, ngắm khói lam chiều, nghe tiếng nổ của mấy chiếc đò hút cát sạn mà thấy nao lòng. Dòng sông vẫn chảy đời sông: thầm lặng, tự tình như mang trong mình một lời tự sự, của nghìn năm trầm mặc.
Chiều nay, đang ngồi uống trà bên khung cửa nhỏ, có người bạn gửi cho bài thơ “Tự sự”của Nguyễn Quang Vũ, đọc thấy hay ghê. Tối trời đổ mưa nên muốn viết vài chữ gửi vào dòng chảy ru đời, dù không thể hiểu được hết bức thông điệp mà anh sinh viên Bách Khoa Đà Nẵng ngày trước viết, nhưng cũng thấy vui vui!
Dòng sông luôn là linh hồn của mỗi vùng, là người bạn chuyển tải niềm tin, sự gửi gắm hay mang đi những phiền muộn mà con người thả xuống…dòng sông dù đục dù trong không bao giờ từ chối hay có một lời than vãn. Nó vẫn miệt mài chảy nhưng có mấy ai ngồi lại bên dòng sông để chia sẻ nỗi lòng với nó hay không? Ta đã có bao giờ gửi xuống dòng sông đời lời cảm ơn và động viên mỗi ngày chưa nhỉ?
Dù đục dù trong, con sông vẫn chảy
Dù cao dù thấp, cây lá vẫn xanh
Dù người phàm tục hay kẻ tu hành
Cũng phải sống từ những điều rất nhỏ.
Mỗi lúc có dịp đứng trên cầu Long Biên khi chiều về nhìn sông Hồng cuộn chảy thấy lòng tràn ngập niềm tin yêu trước nẻo về của cuộc sống. Một buổi sáng cuối thu, đứng trên cầu Trường Tiền thả lòng với dòng Hương sẽ mang lại cho bạn sự bình yên nhẹ nhàng như hơi thở, mềm mại như vần thơ, hay đẹp như nụ cười của cô gái Huế e ấp sau vành nón lá. Đêm bên cầu sông Hàn nghe lòng đầy khát vọng. Những ngày lang thang về miền Tây tôi mới cảm nhận hết sự bao la, rộng lượng của dòng sông Cửu Long là thế nào. Dù cây cối, dòng sông hay con người cũng luôn mang trong mình một khát vọng sống hạnh phúc, an lành. Không có sự vĩ đại nào không bắt đầu từ những chuyện tưởng chừng rất nhỏ. Đừng bao giờ tuyệt vọng bạn nhé, vì tất cả đều được làm bằng những điều rất nhỏ, mà bạn đang nắm trong tay điều đó.
Người tu hành hay kẻ phàm tục cũng phải khởi đầu với hai bàn tay trắng như nhau mà thôi. “Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay. Nếu người đời biết đủ. Phiền não chẳng còn vương”. Chỉ cần mỗi ngày chúng ta buông bỏ một ít nỗi buồn, một ít giận hờn, một ít ích kỷ, một ít tham lam… Để nở một nụ cười hồn nhiên cho những ai đã làm tổn thương mình, thì cuộc đời sẽ bình yên. Cuộc sống sẽ cần những điều rất nhỏ như thế!
Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó
Sao ta không tròn ngay tự trong tâm.
Đất ấp ủ cho mọi hạt nảy mầm
Nhưng chồi tự vươn lên tìm ánh sáng.
Vâng! Cuộc đời nhiều lúc méo mó thật nhưng cũng có lúc tròn đầy. Có khi nào ta tự hỏi ta đã làm được gì cho đất nước hôm nay chưa? Hay khi nào chúng ta cũng có khuynh hướng than trách cuộc đời, vì cái này, do cái kia, vì người này, vì người khác…có bao giờ bạn tự trách lấy mình chưa? Sao ta không tròn ngay từ đầu? Cái thời đại ngày nay sống như vậy chắc là rất khó, phút thật lòng, sự thủy chung , hay một tình yêu không vị kỷ, không mang sắc thái của kim tiền đang bị ánh đèn màu che khuất. Nói thế không có nghĩa là tình yêu lãng mạn đã hết đất để nảy mầm. Sự chân thật luôn được xem là cây cầu nối dài hạnh phúc, là chuẩn mực đạo đức mà con người trong thời đại văn minh cần phải có. Hay sự thủy chung là yếu tố không thể thiếu để xây dựng hạnh phúc cho gia đình, đoàn thể và xã hội.
Mùa thu vẫn còn đó, dù chiếc lá cuối thu mỏng manh. Sống trong môi trường nào, hoàn cảnh nào cũng có những cái khó khăn riêng, dù ở đời hay xuất gia cũng vậy. Nếu chúng ta không tự vươn lên tìm ánh sáng thì bóng đêm của buồn bã, tuyệt vọng, hận thù sẽ bít lối đi về. Cuộc đời vẫn rộng mở với những ai luôn cố gắng, luôn sống tỉnh thức mỗi ngày. Đừng bao giờ từ bỏ ước mơ, dù có khi lớn ta thấy ước mơ ngày một xa vời tầm tay.
Nếu tất cả đường đời đều trơn láng
Chắc gì ta đã nhận được ra ta.
Ai trong đời cũng có thể tiến xa
Miễn là biết tự mình đứng dậy.
Đời không như là mơ! Một câu nói mà vết thương, sự vấp ngã đã làm mình thầm hiểu và cảm thông hơn cho con người, cho cuộc đời. Nếu ai cũng thành công trên con đường trải bằng hoa thì cũng bình thường.“Không đau khổ lấy chi làm chất liệu. Không buồn thương sao biết chuyện con người. Không nghèo đói làm sao thi vị hóa. Không lang thang sao biết nắng mưa nhiều.” Vấp ngã chỗ nào hãy đứng dậy chỗ đấy, vì mọi người vẫn đợi bạn ở phía mặt trời! Hạnh phúc đang vẫy gọi. Đức Thế Tôn đã ân cần dạy chúng ta rằng: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Vậy thì chúng ta còn đợi gì nữa mà không tự chế tác hạnh phúc cho mình mỗi ngày.
Hạnh phúc cũng như bầu trời này vậy
Không chỉ để dành cho một riêng ai.
Hạnh phúc xét cho cùng không phải là đích đến mà là con đường. Vâng hãy đi thật bình yên trên mỗi bước chân bạn nhé, để khi nhìn lại bạn và tôi đều có thể cảm nhận nó sâu sắc hơn. Thầm cảm ơn cuộc đời đã cho ta những điều mầu nhiệm dù rất giản đơn.
Hương trà bay theo gió
Mộng vỡ những ngày xa
Chiều qua tràn nỗi nhớ
Nghe mưa về cuối đường.
Đêm! Những ồn ào của phố thị cũng dần xa, thoảng hương trà theo gió. Chỉ còn tôi với nồng nàn…ngẫm đời mình độc ẩm phiêu linh!
Viễn Du
http://phapbao.org/may-dong-tu-su/
12 tháng 5, 2013
9 tháng 5, 2013
Hiếu đạo trong đời thường
Là đệ tử Phật, có lẽ ai cũng thấm nhuần câu “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. Thế nhưng, để thực hiện cho tròn chữ Hiếu ấy thì rất khó. Khó thì khó thật nhưng không có nghĩa không làm được. Bởi chỉ cần chúng ta biết hướng tâm về cha mẹ và thể hiện nó một cách bình thường trong cuộc sống hằng ngày, thực hiện bằng những hành động tự nhiên của một người con thì cũng đã làm cho cha mẹ vui lòng. Đó chính là thể hiện tâm hiếu kính của mình đối với cha mẹ trong cuộc sống đời thường.
Nghĩ về bổn phận làm con, nhiều khi chúng ta nghĩ quá xa, quá nhiều, để rồi vô tình bỏ quên những việc làm bình thường. Ngay trong cuộc sống hiện tại, chúng ta không quan tâm, để ý đến cha mẹ thì nói gì đến việc làm nào cao xa hơn.
Khi còn sống bên cha mẹ, làm con chỉ cần biết vâng lời, đi thưa về trình, luôn nói lời lễ phép với cha mẹ, siêng năng học hành và làm việc v.v.. là cũng đã làm vui lòng cha mẹ rồi. Đây là những hành động bình thường trong cuộc sống nhưng không phải ai cũng làm được. Bởi do chúng ta quá vô tình, nên đã bỏ quên trong từng ngày từng giờ, khiến cha mẹ đã không biết bao nhiêu lần lo buồn về ta.
Có những lúc chúng ta đi đâu xa, nhưng không “đi đến nơi, về đến chốn”. Vì mãi mê với việc riêng mà quên mất người mẹ đang mỏi mòn trông đợi, thấp thỏm lo âu không biết con mình có xảy ra chuyện gì hay không sao giờ này chưa thấy về. Nếu để ý một chút, chỉ cần chúng ta gọi báo cho mẹ hay tin ta đang bận việc gì đó, đến mấy giờ về… Như thế thì mẹ sẽ yên tâm hơn, không phải thấp thỏm lo âu, đứng ngồi không yên.
Có khi chúng ta nói dối với mẹ đi đến nơi này nhưng rồi lại qua nơi khác, dù mẹ không hay biết gì nhưng làm như vậy là chúng ta đã lừa dối mẹ. Thay vì hôm nay thưa với mẹ đến trường học, nhưng thật ra chúng ta lại cùng bạn bè đi chơi. Còn mẹ ở nhà thì cứ tưởng con mình ngoan chăm, siêng năng học hành nên dù phải dải nắng dầm mưa cũng không nề hà. Miễn sao con học hành tốt, nên người là mẹ thấy hạnh phúc rồi. Thế nhưng mẹ đâu biết rằng giờ này mẹ đang vất vả trên đồng ruộng nắng cháy, thì con của mẹ lại mãi mê chơi đùa cùng chúng bạn, không chịu học hành. Chúng ta thử nghĩ xem, nếu mình làm như vậy là tội nghiệp cho mẹ lắm không? Chúng ta nỡ lòng nào đối xử với mẹ như thế, nỡ nào lấy sự chơi đùa, dối trá mà đáp lại tình thương yêu chân tình của mẹ? Thay vì chúng ta muốn đi chơi nơi nào thì nên thưa thật với mẹ, để cho mẹ biết rõ, như vậy sẽ thoải mái hơn, để mẹ cũng thấy hài lòng một điều là con mình sống chân thật.
Có những lúc vì một chút ích kỷ cá nhân mà chúng ta đành lòng nói lời bất kính với mẹ, làm đau lòng mẹ vô cùng. Tại sao ta không nghĩ rằng cả đời mẹ hy sinh cho con mà quên cả bản thân mình, mẹ đâu bao giờ tính toán so đo với con cái. Vậy mà bổn phận làm con chúng ta lại tính toán so bì với mẹ từng chút một, cũng vì lợi ích cá nhân của mình.
Có những lúc vì mẹ nấu thức ăn không được ngon lắm, chúng ta lại tỏ ra nhăn nhó với mẹ, rồi lại không chịu ăn, để bụng đói cho mẹ đau lòng xót dạ. Vậy thì tại sao chúng ta không nghĩ lại sự mệt nhọc của mẹ trong cả ngày phải đi làm vất vả. Về nhà lại còn lo nấu thức ăn cho mình ăn uống. Thay vì ta làm khó mẹ, không chịu ăn thì hãy vui cười hoan hỷ với mẹ và ăn một cách nhiệt tình, ăn thật ngon, bởi chúng ta cảm thấu được trong từng món ăn có cả hương vị tình thương của mẹ. Thậm chí khi thấy mẹ về nhà mệt nhọc, chúng ta biết cùng phụ giúp với mẹ làm thức ăn. Như thế thì quả là hạnh phúc biết bao.
Nhiều và rất nhiều những sự việc bình thường trong cuộc sống, nhưng do chúng ta không để ý. Cứ nghĩ rằng Hiếu đạo là làm những việc to lớn như làm ông này bà nọ trong xã hội, để được có danh tiếng với đời, để cha mẹ có tiếng thơm. Vâng! Làm con hiếu thảo cũng rất cần sự thành công này, nhưng đó là việc của tương lai. Trước mắt, trong cuộc sống hiện tại hằng ngày, chúng ta phải biết thể hiện trọn vẹn, chân thành bổn phận của một người con Hiếu đạo, thể hiện qua những cử chỉ, hành động, lời ăn tiếng nói v.v.. trong thực tế cuộc sống, không làm cha mẹ buồn lòng. Hoặc nếu lúc nào đó chúng ta vô tình gây đau khổ cho cha mẹ thì phải biết xin lỗi và sửa sai, để trở thành con người hoàn thiện hơn. Đó mới là chất liệu quý giá tác thành nên một người hữu dụng mai sau.
Hiểu được những giá trị đó, Vu lan này trở về, chúng ta đi chùa lễ Phật, quỳ trước Phật đài, hãy thành tâm sám hối và tự kiểm điểm lấy mình. Tự suy ngẩm xem chúng ta đã có bao nhiêu lần làm mắt mẹ ngấn lệ, làm đau lòng mẹ kính yêu, để rồi trở về xin lỗi mẹ, nói lời yêu thương với mẹ và hứa với lòng, hứa với mẹ từ đây sẽ sống tốt hơn để cho mẹ an vui. Được như vậy, chúng ta sẽ có công đức vô lượng vô biên. Như đức Phật đã nói: “Những gia đình nào, trong ấy các con cái kính lễ cha mẹ, những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với Phạm thiên, được chấp nhận là đáng được cúng dường” (Kinh Tăng Chi). Chính vua trời Đế Thích, nhờ hiếu thảo với cha mẹ mà được phước báu làm vua cõi trời Tam Thập Tam Thiên: “Này Mahàli, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị này chấp trì và thực hành bảy cấm giới túc: hiếu dưỡng với cha mẹ, kính trọng các bậc gia trưởng… Nhờ chấp trì bảy cấm giới túc này, Sakka được địa vị Thiên chủ” (Kinh Tương Ưng).
Khi còn sống bên cha mẹ, làm con chỉ cần biết vâng lời, đi thưa về trình, luôn nói lời lễ phép với cha mẹ, siêng năng học hành và làm việc v.v.. là cũng đã làm vui lòng cha mẹ rồi. Đây là những hành động bình thường trong cuộc sống nhưng không phải ai cũng làm được. Bởi do chúng ta quá vô tình, nên đã bỏ quên trong từng ngày từng giờ, khiến cha mẹ đã không biết bao nhiêu lần lo buồn về ta.
Có những lúc chúng ta đi đâu xa, nhưng không “đi đến nơi, về đến chốn”. Vì mãi mê với việc riêng mà quên mất người mẹ đang mỏi mòn trông đợi, thấp thỏm lo âu không biết con mình có xảy ra chuyện gì hay không sao giờ này chưa thấy về. Nếu để ý một chút, chỉ cần chúng ta gọi báo cho mẹ hay tin ta đang bận việc gì đó, đến mấy giờ về… Như thế thì mẹ sẽ yên tâm hơn, không phải thấp thỏm lo âu, đứng ngồi không yên.
Có khi chúng ta nói dối với mẹ đi đến nơi này nhưng rồi lại qua nơi khác, dù mẹ không hay biết gì nhưng làm như vậy là chúng ta đã lừa dối mẹ. Thay vì hôm nay thưa với mẹ đến trường học, nhưng thật ra chúng ta lại cùng bạn bè đi chơi. Còn mẹ ở nhà thì cứ tưởng con mình ngoan chăm, siêng năng học hành nên dù phải dải nắng dầm mưa cũng không nề hà. Miễn sao con học hành tốt, nên người là mẹ thấy hạnh phúc rồi. Thế nhưng mẹ đâu biết rằng giờ này mẹ đang vất vả trên đồng ruộng nắng cháy, thì con của mẹ lại mãi mê chơi đùa cùng chúng bạn, không chịu học hành. Chúng ta thử nghĩ xem, nếu mình làm như vậy là tội nghiệp cho mẹ lắm không? Chúng ta nỡ lòng nào đối xử với mẹ như thế, nỡ nào lấy sự chơi đùa, dối trá mà đáp lại tình thương yêu chân tình của mẹ? Thay vì chúng ta muốn đi chơi nơi nào thì nên thưa thật với mẹ, để cho mẹ biết rõ, như vậy sẽ thoải mái hơn, để mẹ cũng thấy hài lòng một điều là con mình sống chân thật.
Có những lúc vì một chút ích kỷ cá nhân mà chúng ta đành lòng nói lời bất kính với mẹ, làm đau lòng mẹ vô cùng. Tại sao ta không nghĩ rằng cả đời mẹ hy sinh cho con mà quên cả bản thân mình, mẹ đâu bao giờ tính toán so đo với con cái. Vậy mà bổn phận làm con chúng ta lại tính toán so bì với mẹ từng chút một, cũng vì lợi ích cá nhân của mình.
Có những lúc vì mẹ nấu thức ăn không được ngon lắm, chúng ta lại tỏ ra nhăn nhó với mẹ, rồi lại không chịu ăn, để bụng đói cho mẹ đau lòng xót dạ. Vậy thì tại sao chúng ta không nghĩ lại sự mệt nhọc của mẹ trong cả ngày phải đi làm vất vả. Về nhà lại còn lo nấu thức ăn cho mình ăn uống. Thay vì ta làm khó mẹ, không chịu ăn thì hãy vui cười hoan hỷ với mẹ và ăn một cách nhiệt tình, ăn thật ngon, bởi chúng ta cảm thấu được trong từng món ăn có cả hương vị tình thương của mẹ. Thậm chí khi thấy mẹ về nhà mệt nhọc, chúng ta biết cùng phụ giúp với mẹ làm thức ăn. Như thế thì quả là hạnh phúc biết bao.
Nhiều và rất nhiều những sự việc bình thường trong cuộc sống, nhưng do chúng ta không để ý. Cứ nghĩ rằng Hiếu đạo là làm những việc to lớn như làm ông này bà nọ trong xã hội, để được có danh tiếng với đời, để cha mẹ có tiếng thơm. Vâng! Làm con hiếu thảo cũng rất cần sự thành công này, nhưng đó là việc của tương lai. Trước mắt, trong cuộc sống hiện tại hằng ngày, chúng ta phải biết thể hiện trọn vẹn, chân thành bổn phận của một người con Hiếu đạo, thể hiện qua những cử chỉ, hành động, lời ăn tiếng nói v.v.. trong thực tế cuộc sống, không làm cha mẹ buồn lòng. Hoặc nếu lúc nào đó chúng ta vô tình gây đau khổ cho cha mẹ thì phải biết xin lỗi và sửa sai, để trở thành con người hoàn thiện hơn. Đó mới là chất liệu quý giá tác thành nên một người hữu dụng mai sau.
Hiểu được những giá trị đó, Vu lan này trở về, chúng ta đi chùa lễ Phật, quỳ trước Phật đài, hãy thành tâm sám hối và tự kiểm điểm lấy mình. Tự suy ngẩm xem chúng ta đã có bao nhiêu lần làm mắt mẹ ngấn lệ, làm đau lòng mẹ kính yêu, để rồi trở về xin lỗi mẹ, nói lời yêu thương với mẹ và hứa với lòng, hứa với mẹ từ đây sẽ sống tốt hơn để cho mẹ an vui. Được như vậy, chúng ta sẽ có công đức vô lượng vô biên. Như đức Phật đã nói: “Những gia đình nào, trong ấy các con cái kính lễ cha mẹ, những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với Phạm thiên, được chấp nhận là đáng được cúng dường” (Kinh Tăng Chi). Chính vua trời Đế Thích, nhờ hiếu thảo với cha mẹ mà được phước báu làm vua cõi trời Tam Thập Tam Thiên: “Này Mahàli, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị này chấp trì và thực hành bảy cấm giới túc: hiếu dưỡng với cha mẹ, kính trọng các bậc gia trưởng… Nhờ chấp trì bảy cấm giới túc này, Sakka được địa vị Thiên chủ” (Kinh Tương Ưng).
HT. Thích Như Niệm
Phật giáo Thiền tông thực tế đến không ngờ
Những năm cuối đời, những gì thấy hay tôi không còn nói ẩn khuất như trước nữa, mà nói rõ ra hết cho đại chúng nghe. Bởi vì chúng ta tu nếu không nắm chắc, không biết rõ chỗ đến của mình thì đời tu sẽ bị trở ngại, bị nghi ngờ không tiến được. Thế nên hôm nay tôi sẽ giảng đề tài Phật giáo Thiền tông thực tế đến không ngờ, đại chúng chú tâm lắng nghe, lãnh hội để tu hành.
Ngày xưa tôi đọc lịch sử của đức Phật rất thắc mắc về điểm này. Khi Ngài đi tu, trải qua năm năm tầm đạo, sáu năm khổ hạnh trong rừng già, chịu bao nhiêu khó khổ, cũng chỉ vì giải quyết vấn đề thoát ly sanh tử cho mình và tất cả chúng sanh. Sau bốn mươi chín ngày đêm dưới cội Bồ-đề, Ngài giác ngộ viên mãn, thành Phật. Lẽ ra đạt được mục đích tối hậu ấy xong, đức Phật liền thực hiện chí nguyện độ sanh ngay, nhưng Ngài lại trù trừ, không muốn đi giáo hóa. Mãi cho đến khi trời Đế Thích, trời Phạm Thiên xuống đảnh lễ, tha thiết yêu cầu Ngài chỉ dạy chúng sanh, Ngài bảo: “Ta sợ nói ra, chúng sanh không hiểu”. Bấy giờ chư thiên năm lần bảy lượt xin Phật lập bày phương tiện để chỉ dạy chúng sanh. Được thế hy vọng lần lần họ sẽ hiểu. Từ đó đức Phật mới khởi sự đi đến vườn Lộc Uyển thuyết bài pháp đầu tiên là Tứ đế. Giáo pháp của Như Lai bắt đầu ra đời do nhân duyên ấy.
Như vậy pháp Tứ đế là phương tiện độ sanh ban đầu của đức Phật. Thế thì tại sao cái chân thật cứu kính Ngài thấy được lại không nói, mà phải dùng phương tiện? Tôi ngờ chỗ này, vì lòng từ bi của Phật tràn trề, những gì thấy được phải nói cho chúng sanh nghe, chỉ cho chúng sanh hiểu, sao lại không chịu nói thẳng, mà phải dùng phương tiện nói quanh co? Hay là Ngài đợi nài nỉ, yêu cầu mới thuyết pháp. Lúc trước tôi đã nghi xấu Phật như vậy đó.
Đến bây giờ hiểu ra tôi mới nhận được chỗ thâm sâu của đức Phật. Thấy mà nói không được, hoặc nói người ta không nghe, không hiểu thì làm sao nói! Bởi vậy Ngài trù trừ không muốn đi, không muốn nói. Đến khi chư thiên yêu cầu tha thiết giáo hóa chúng sanh, chừng ấy buộc lòng Ngài phải dùng phương tiện.
Thế nên biết giáo pháp của đức Phật, bắt đầu từ Tứ đế trở đi đều là phương tiện hết, chớ không phải là chỗ cứu kính. Vì thế sau này Phật nói pháp của Như Lai như ngón tay chỉ mặt trăng. Mặt trăng là chỗ muốn chỉ, nhưng nếu làm thinh không dùng phương tiện làm sao người ta thấy, buộc lòng phải dùng ngón tay chỉ. Ngón tay chỉ mặt trăng, ngón tay là ngón tay, mặt trăng là mặt trăng, chớ ngón tay không phải là mặt trăng. Nhưng sau này chúng ta lại lầm cho ngón tay là mặt trăng, nên cứ bám vào chữ nghĩa để tu, không chịu thấy cái Phật muốn chỉ. Đó là lỗi do kẹt trong phương tiện mà quên chỗ cứu kính.
Như vậy pháp Tứ đế là phương tiện, nhưng bây giờ được xem như bốn chân lý không thể nào thay đổi. Khi Phật giảng dạy cho năm anh em ông Kiều Trần Như, Ngài nói Tứ đế. Một là Khổ đế, đó là lẽ thực không ai chối cãi hết. Khi mới sanh ra khóc oa oa là khổ, đến lớn lên bệnh đau khổ, đói khát khổ, giàu sang lo giữ gìn khổ, có địa vị cao sợ mất khổ, ở địa vị thấp bị người hiếp đáp khổ… nói chung cuộc sống lúc nào cũng đau khổ. Rõ ràng có thân là khổ, không nghi ngờ gì hết. Hai là già khổ. Đã sanh ra, lớn lên tới một ngày nào đó cũng phải già. Già thì yếu đuối, lụm cụm đau bệnh hoài, không còn tự tại, không làm chủ được thân nữa. Có thân mà không làm chủ được nó thì rất khổ. Nên nói già khổ. Ba là bệnh khổ. Không phải đợi già mới bệnh mà trẻ cũng bệnh. Ai mang bệnh cũng đều rên khổ. Bốn là chết khổ. Ai trước khi chết cũng giật mình giẫy giụa, thở không được, bứt rứt đau đớn rất khổ.
Tóm lại bốn tướng khổ này không ai chối cãi được. Đức Phật dùng phương tiện nói ra lẽ thật của cuộc đời, của con người cho chúng ta thấy. Khi ta chấp nhận điều này rồi, Ngài nói đến nguyên nhân có khổ. Đó là từ quả khổ Ngài phăng lần tới nhân, chỉ ra nỗi khổ kia không phải bỗng nhiên có. Nó từ tập nhân sanh. Tập nhân là gì? Là tham, sân,si, mạn, nghi, ác kiến v.v… tất cả các phiền não.
Ví dụ như tham. Chúng ta có thân là khổ nhưng muốn nó còn hoài, biết ăn cao lương mỹ vị hay sanh bệnh mà thích ăn ngon, biết đam mê nữ sắc là bệnh hoạn nhưng vẫn cứ đam mê mãi. Tất cả nỗi khổ trước mắt đều vì tham mà có. Bởi tham nên mới đòi hỏi, tìm kiếm, giành giựt. Đòi hỏi, tìm kiếm, giành giựt tất nhiên là chuốt đau khổ cho mình, cho người. Vì nếu tìm kiếm mà bị ai chận đứng hay ngăn đón thì nổi tức lên, sau đó làm đủ thứ chuyện tàn ác, hung bạo.
Tham sân là cái khổ nổi dễ thấy. Nhưng sở dĩ có tham vì gốc không biết được lẽ thật. Ví dụ như tham ăn, ta thích ăn ngon nên cứ tưởng tượng đến món mình thích thì thấy thèm. Bây giờ nếu chịu khó quán chiếu trở lại, món ăn đó ngon được bao lâu? Chỉ ở lưỡi một chút, nuốt vô khỏi cổ là hết thấy ngon. Nếu ăn hơi nhiều nhiều, lát sau ợ ngược, ợ xuôi còn hôi nữa. Như vậy nó có thật đâu. Vậy mà chúng ta hết thèm cái này, đến thèm cái kia, tại vì cứ ngỡ nó ngon thật, không ngờ bên cạnh cái ngon có cái không ngon.
Con người si mê cứ đuổi theo những thỏa mãn tạm thời mà không thấy tai họa lâu dài. Phật gọi đó là si. Từ si mới có tham, có sân. Nhưng vì tham sân dễ thấy, còn si ngầm bên trong khó thấy nên ta thường nghe nói tham sân si. Ba thứ này chính là nhân luân hồi. Tại sao? Vì tham sống nên mất thân này liền tìm thân khác. Do sân nên tạo nghiệp ác, vay trả trả vay nợ nần liên miên không dứt. Thế nên đời này có thân, đời sau tiếp tục có thân nữa để đền trả nợ cũ. Vì thế nói tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… cho tới những phiền não tế nhị hơn nữa đều là nhân đưa tới quả khổ.
Bây giờ muốn tiêu diệt nhân đau khổ đó phải làm sao? Phật nói diệt hết nhân đau khổ thì quả khổ không còn, đó là Diệt đế. Nhưng muốn diệt nó không phải ngẫu nhiên diệt được, mà phải có phương pháp tức là Đạo đế. Phương pháp Phật dạy ở đây là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, như Bát chánh đạo v.v… Tu Bát chánh đạo là từ chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp cho tới chánh định. Chánh định là sao? Là dứt hết những mầm lăng xăng, lộn xộn trong nội tâm. Tới chánh định là tới chỗ không còn nghĩ suy, không còn phân biệt, không còn tưởng tượng điên đảo nữa.
Trong bốn đế, Khổ đế là quả thực tế chúng ta thấy được. Từ phân biệt quả phăng lần tới nhân là Tập đế. Biết nhân tạo khổ rồi tìm cách diệt nhân đó là Đạo đế. Nhân đau khổ đã diệt hết gọi là Diệt đế. Diệt đế là Niết-bàn, bởi nhân đau khổ đã diệt tức đi tới chánh định, chánh định thì đạt được Niết-bàn.
Như vậy đức Phật đưa những phương tiện để chúng ta phân tích từ bên ngoài thân đến trong nội tâm. Thân này khổ là hình tướng bên ngoài, do nhân là nội tâm gây ra. Muốn diệt nhân ấy phải có phương pháp, đó là phương tiện. Đã dùng phương tiện để tu thì cũng có quả phương tiện để chứng. Chứng phương tiện là gì? Nếu tu theo pháp Tứ đế thì chứng từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, rồi qua Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ, cuối cùng tới Diệt tận định, chứng A-la-hán.
Nói theo Tứ quả Thanh văn thì Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Tu-đà-hoàn còn bảy phen trở lại thế gian tu nữa mới hết sanh tử. Tư-đà-hàm còn một phen trở lại nhân gian. A-na-hàm không trở lại nhân gian, mà sanh lên cõi trời tu tiếp, sau chứng A-la-hán.
Nói theo thứ bậc Tứ thiền, Sơ thiền gọi là Ly sanh hỷ lạc. Ly là lìa ngũ dục mà được vui. Nhị thiền gọi là Định sanh hỷ lạc, do tâm được an định, tự nhiên thấy vui. Tâm yên thấy vui đó là định sanh hỷ lạc. Tiến lên tới Tam thiền gọi là Ly hỷ diệu lạc. Nghĩa là ta bỏ cái vui của Ly sanh được cái vui của Định sanh, bây giờ cái vui của định cũng bỏ luôn, chỉ còn niềm vui nhè nhẹ thầm thầm bên trong gọi là Ly hỷ diệu lạc. Vì vui thô mất đi chỉ còn vui tế nên gọi là diệu lạc. Tiến lên Tứ thiền gọi là Xả niệm thanh tịnh địa, tức buông niệm. Niệm dấy lên liền buông, do buông niệm được yên nên gọi là Xả niệm thanh tịnh.
Tu theo thứ tự từng bậc thì như vậy. Cho nên người tu theo Thiền tông không nói cấp bậc gì cả, mà nhảy thẳng vào chỗ vô niệm, nghĩa là đi tắt ngang Xả niệm thanh tịnh. Như thế ngầm hiểu họ cũng trải qua các thứ lớp kia, nhưng không nói từng bậc chứng đắc. Bởi Phật nói tu Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ là bốn loại thiền ngoại đạo, nếu không tiến lên Diệt thọ tưởng định thì không thể nhập Niết-bàn được. Vì vậy Phật khuyên các thầy Tỳ-kheo không nên đi theo con đường Tứ không, mà ngang tới Tứ thiền tu qua Tứ Diệu đế, chứng Tứ quả Thanh văn thì tốt hơn.
Nói về Tứ không, trước tiên là Không vô biên xứ. Đây là do hành giả dùng tưởng trống không, từ trống không nhỏ tới trống không lớn dần đến vô cùng vô tận, chứng đạt Không vô biên xứ. Bỏ cái không đó quay lại quán thức phân biệt của mình. Biết thức phân biệt không có tướng mạo, từ phân biệt thân đến phân biệt tâm, cứ bủa ra khắp hết vô cùng vô tận, đạt được Thức vô biên xứ. Kế tiếp tưởng thân tâm không có gì hết, rỗng tếch không chỗ nơi, chứng đạt Vô sở hữu xứ. Dù tưởng rỗng tếch vẫn còn là tưởng, nên tiến lên Phi tưởng phi phi tưởng, nghĩa là không có tưởng mà không phải không tưởng. Đến đây không còn tưởng thô, tưởng không, tưởng thức mà có tưởng vi tế tức tưởng rỗng tếch, còn cái tưởng đó cũng phải bỏ, mới qua Diệt tận định. Diệt tận định còn gọi là Diệt thọ tưởng định. Thọ tức là cảm giác của sáu căn đối với sáu trần, tưởng là phần bên trong nội tâm. Trong nội tâm thì lặng, ngoài đối với sáu trần không dính, tới đây nhập Diệt thọ tưởng định, chứng vô sanh tức quả A-la-hán.
Tu theo Thiền tông không mắc kẹt ở Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, mà đi thẳng vào Xả niệm thanh tịnh. Xả niệm thanh tịnh rồi lại tiếp tục tiến thẳng lên Diệt thọ tưởng định, chớ không qua Tứ không. Như vậy chỉ một bước buông niệm là thẳng tới Diệt thọ tưởng định. Đó là tôi đối chiếu giữa Thiền tông với thiền Nguyên thủy, tu theo Tứ đế.
Trên đường tu nếu theo cấp bậc thì thấy được quả này, quả kia. Nhưng thấy “được” thì dễ mắc kẹt trong chứng đắc lắm, chấp bữa nay tôi chứng Sơ thiền rồi, tâm ngã mạn theo đó phát sanh. Còn tu thấy niệm dấy khởi liền bỏ, không nói chứng thì không có gì để chấp, nhờ thế tâm ngã mạn không phát sanh. Khi nào các niệm lặng hết, muôn duyên bên ngoài không dính, nội tâm không kẹt, không động, đó là vô sanh, không nói Niết-bàn mà đã nhập trong Niết-bàn. Đây là gốc của sự tu.
Thật ra cấp bậc đều là giả danh, cái hiểu, cái sống thực bên trong mới quan trọng. Phật vì phương tiện lập ta cấp bậc để chúng ta dễ tu, đó không phải là mục đích cứu kính. Nhưng vì không hiểu, ta lại chấp phương tiện ấy là chân lý nên không nhận ra được chỗ chân thật đức Phật muốn chỉ bày. Lại chỗ chân thật ấy không có tướng mạo nên không thể chỉ thẳng, dùng ngôn ngữ người ta càng không biết, do đó buộc lòng đức Phật phải dùng phương tiện nói quanh co. Ai nhận được thì tu đúng với tông chỉ của Phật, đạt được kết quả viên mãn.
Thế nên phương tiện chỉ giúp chúng ta trong một giai đoạn nào thôi, phải cố gắng tiến lên nữa, đừng để mắc kẹt trong phương tiện. Nếu chúng ta còn kẹt nơi chứng đắc là còn toan tính, còn trông đợi. Mà toan tính trông đợi thì tâm làm sao yên. Đi tới cứu kính thì phải hoàn toàn vắng lặng mọi suy tư phân biệt, tâm lặng lẽ thanh tịnh mới thể nhập được chỗ chân thật bất sanh bất diệt.
Trở lại vấn đề của đức Phật. Khi nhận ra được cái chân thật ai cũng có sẵn nhưng vì quên nên chúng sanh mãi chìm đắm trong sanh tử, đức Phật không biết nói sao cho chúng sanh hiểu. Cho nên Ngài do dự chần chừ chưa muốn nói, sợ họ không tin. Như nói thân này giả, thế gian có chấp nhận đâu, họ còn cười nữa là khác. Như vậy làm sao giáo hóa? Thật là khó. Vì vậy Phật mới nghĩ ra Tứ đế, chỉ cho thấy thân này có một, hai, ba, bốn thứ khổ. Chúng sanh tin rồi mới dẫn lần lần đi tới chỗ thân không thật. Nên giáo pháp là phương tiện, là ngón tay chỉ mặt trăng thôi.
Trải qua bao nhiêu năm trời dẫn chúng sanh đi trong phương tiện, sau khi họ đã thuần thục, đức Phật mới nói thẳng phương tiện ấy không thật, cái thật ở chỗ này nè. Giống như ngón tay không phải mặt trăng, nhưng vì muốn thấy mặt trăng phải nương ngón tay, song nhớ đừng chấp ngón tay là mặt trăng.
Khi nhận thấy căn cơ của một ít đồ đệ đã chín mùi, một hôm trên hội Linh Sơn đức Phật họp tất cả chư Tăng lại, Ngài thăng tòa không nói gì, chỉ cầm cành hoa sen đưa lên, rồi nhìn từng người xem ai hiểu điều mình muốn nói. Nhìn tới ngài Ca Diếp, thấy Ca Diếp mỉm cười, Phật rất vui. Đây thật là người đã chín mùi, đã hiểu được, đã thấm được. Vì thế sau này các Tổ thường dùng câu “bốn mắt nhìn nhau”, nguyên văn chữ Hán là tứ mục tương cố.
Khi Phật đưa cành hoa sen lên, rồi nhìn khắp một lượt hội chúng, ai cũng ngơ ngác. Đến ngài Ca Diếp, hai thầy trò bốn mắt nhìn nhau thông cảm nên Tôn giả mỉm cười. Như vậy tứ mục tương cố để chỉ cái gì? Điều này trong nhà Thiền gọi là bí mật không thể nói được. Nhưng thật ra đâu phải bí mật gì, chẳng qua mở miệng thì sai nên làm thinh vậy thôi.
Phật đưa hoa sen lên là gợi cho hội chúng khởi chú tâm nhìn hoa sen. Bấy giờ Thế Tôn xem xét trong hàng đệ tử thấy mọi người không biết gì hết, tất cả đều nhìn chăm chăm vào hoa sen. Riêng ngài Ca Diếp khi thấy hoa sen, cùng lúc bắt gặp ánh mắt của Phật chạm tới, Ngài liền cười, Phật vui lên liền và ấn chứng cho ngài Ca Diếp. Đó là thông cảm. Như vậy mắt Phật nhìn, mắt ngài Ca Diếp nhìn, bốn mắt gặp nhau hiểu nhau nên mới mỉm cười. Như vậy Phật muốn chỉ cái gì? Đây là vấn đề hết sức sâu thẳm mà cũng hết sức giản đơn.
Như tôi đã nói khi tất cả các niệm diệt hết là chứng diệt tận định. Nếu trong tâm an định rồi, hành giả nhìn thấy sự vật bên ngoài có dấy niệm không? Không dấy. Bên trong lặng thì đối với cảnh bên ngoài cũng lặng. Trong lặng, ngoài lặng lúc này còn cái gì? Chỉ một cái trong lặng. Tôi thường nói như quí vị ngồi năm ba phút không một ý nghĩ nào dấy lên, lúc đó có biết không? Biết rõ ràng. Tiếng chim kêu mình nghe, bóng người đi mình thấy. Thấy biết rành rẽ cái nào ra cái ấy, biết mà không dấy động, lặng yên hằng tri giác. Cái biết đó không động cũng không có tướng nên nó không sanh diệt.
Nhưng chúng ta có bệnh vừa thấy thì phân biệt tốt xấu, vừa nghe thì phân biệt hay dở, rồi quên cái thấy nghe ban đầu của mình. Nắm bắt theo sắc tướng âm thanh bên ngoài thành ra điên đảo. Hiện giờ ai không có cái biết hiện tiền ấy? Thấy tức là biết, biết tức là tâm. Như vậy khi ở trong lặng được vọng tưởng rồi, bên ngoài đối duyên xúc cảnh, sáu căn không bị dính kẹt với sáu trần, lúc đó ta là Phật hiện tiền chớ còn gì nữa! Nhưng nói thế thiên hạ không chịu đâu, phải có hào quang, có hoa sen hiện ở trên trời, trên mây mới được.
Cái biết rõ ràng nơi mắt, đó là cái thật của mình mà chúng ta coi thường, không chịu nhận. Nhìn cây tùng nói nó dáng con gì, vật gì thì thích lắm, chớ nói cây tùng là cây tùng thì không chịu. Phật nói chúng sanh điên đảo là vì vậy, không bao giờ chấp nhận sự thật, chấp nhận sự hiện hữu của mình và muôn vật đúng ở vị trí của mỗi thứ.
Trong hội Linh Sơn, đức Phật đưa cành hoa lên là muốn chỉ cái Ngài đã ấp ủ từ trước tới giờ, đó chính là tâm hiện tiền chân thật đầy đủ nơi mỗi người, là tánh thấy tánh nghe hằng tri hằng giác. Mọi người đều có tánh thấy, tánh nghe, tánh biết mà không chịu nhận, cứ chạy theo những thứ giả tạm bên ngoài. Phật muốn chỉ thẳng nhưng không làm sao chỉ được, buộc lòng phải nói quanh co, đủ thứ phương tiện. Chờ đến nhân duyên chín mùi Ngài mới chỉ thẳng bằng cách đưa cành hoa lên. Ở đây đức Phật cốt làm cho hội chúng nhận ra tánh thấy hằng hữu nơi mình, nhưng tất cả đều ngẩn ngơ chứng tỏ không biết gì. Tới ngài Ca Diếp nhìn thấy liền cười vì Ngài nhận biết chỗ Phật muốn chỉ, đó là Ngài đã ngộ nên được đức Thế Tôn ấn chứng.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Phật đã cố gắng chỉ cái chân thật cho mình, chớ không muốn che giấu làm gì. Nhưng vì ta không lãnh hội thôi, cứ theo kinh mà hiểu, kẹt trong văn tự chữ nghĩa nên không thấy được cái sâu kín bên trong. Sau khi Phật nhập Niết-bàn rồi, tôn giả A-nan hỏi ngài Ca Diếp:
- Thưa sư huynh, đức Thế Tôn truyền y kim lang cho sư huynh, ngoài ra còn có truyền cái gì khác không?
Ngài Ca Diếp kêu:
- A-nan.
Ngài A-nan ứng thinh:
- Dạ.
Ngài Ca Diếp bảo:
- Cây phướn trước chùa ngã.
Nhưng thật ra lúc ấy cây phướn có ngã đâu. Như vậy mới biết rằng trọng tâm là vừa kêu liền ứng thinh dạ, đó là tánh nghe hằng hữu. Cái biết từ lỗ tai không có suy nghĩ, nghe kêu thì lên tiếng, chứng tỏ cái biết ấy luôn sẵn nơi ta. Đó là ngài Ca Diếp đã trả lời cái đức Phật truyền cho mình rồi, ngay đó ngài A-nan liền nhận được.
Người xưa có cố tình giấu giếm mình gì đâu, chỉ vì không nói được. Bởi nói ra là trật, chỉ còn thuật kêu thôi. Khi ngài ca Diếp kêu, A-nan ứng thinh “dạ”, cả hai bên đều không khởi suy nghĩ mà nghe biết rõ ràng, hiện tiền nơi sáu căn của chúng ta. Đó là điều cốt tủy đức Phật đã để lại và chư Tổ tiếp nối truyền trao cho đến ngày nay.
Chúng ta thấy từ Phật tới Tổ Ca Diếp chỉ truyền một thứ, không có khác. Nếu khác chăng thì ở mắt hoặc tai thôi, chớ không có hai pháp. Các Ngài cố chỉ cái biết thật của mình, còn cái biết hơn thua, phải quấy là cái biết của thế gian không thật, biết qua bóng dáng vô thường. Cái biết thật là biết trực tiếp không qua hình ảnh ngôn ngữ nào hết. Đó là chỗ thiết yếu chư Phật Tổ đã truyền lại cho chúng ta.
Thế thì chỉ “cái đó” gần hay xa, có quyền bí gì không? Các Ngài chỉ ra một cái thực tế sẵn nơi mình mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi, nên không ai dám nhận “cái đó” của mình hết. Đó là giai đoạn đầu từ Phật tới Tổ. Qua giai đoạn kế là các Tổ sau này truyền thừa cho nhau, đi quanh co đến đâu rồi cũng trở về chỗ đó.
Tổ thứ ba là Tổ Tăng Xán. Ngài có làm bài “Tín tâm minh”. Mở đầu thế này:
Đại đạo vô nan,
Duy hiềm giản trạch
Bao nhiêu đó thôi đã nói hết rồi. Đạo ở đây là lấy từ của bên Lão giáo. Lão giáo nói đạo là chỗ không còn ngôn thuyết, không còn nói năng, là chân lý tuyệt đối. Như vậy chân lý cuối cùng chúng ta gọi là đại đạo. Đại đạo không khó, mà khó là tại giản trạch, phân biệt. Cứ nghe gọi trực tiếp trả lời, đưa cái gì lên trực tiếp thấy, đó là đại đạo. Còn bước qua cái suy nghĩ thứ hai thì mất đại đạo. Bởi vậy có người hỏi ngài Triệu Châu: “Thế nào là đại đạo? Ngài trả lời: “Đại đạo là con đường cái”. Đại đạo ở ngay trước mắt không chịu hỏi, tức nhiên phải chỉ đường cái ngoài kia. Người sau cứ như vậy mà mò nên mò không ra.
Đến ngài Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp: “Bình thường tâm thị đạo”, tức tâm bình thường là đạo. Tâm bình thường là sao? Chúng ta có tâm bình thường không? Có mà không biết giữ nên thành không. Vậy tâm bình thường là tâm gì? Là tâm không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ phải, không nghĩ quấy… tất cả cái nghĩ hai bên đều không có. Thế thì hiện giờ chúng ta có tâm đó không? Ai cũng thừa nhận có mà không sống được với nó vì bỏ quên lâu quá, bây giờ không nhận ra nữa. Bởi vậy tôi nói chúng ta là những kẻ rất phủ phàng, rất tệ bạc. Phũ phàng ai? Phũ phàng mình. Cứ xách gói đi đầu này học đạo, đầu kia học đạo, cầu khẩn lạy lục muốn u đầu sức trán mà tìm vẫn không ra. Nghe chỗ nào linh thiêng liền chạy đến, rốt cuộc cái sẵn có bên mình lại quên, không phũ phàng là gì?
Chúng ta thường gọi những người điên là bất bình thường. Bây giờ tâm mình đang bình thường, tự nhiên khởi nghĩ lăng xăng là bất bình thường, như vậy mình có điên không? Bởi vậy Phật nói chúng sanh điên đảo. Rõ ràng đang sống bình thường bỗng dấy niệm chạy tứ tung, rồi kềm đè. Khổ chưa? Chúng ta tu mà không chịu sống với tâm bình thường, nên trở thành điên đảo, nhưng ai nói ta điên thì tức lộn ngược lên. Thế là điên lại càng điên.
Phật đã chỉ rõ ràng tâm bình thường là đạo, nhưng chúng ta chạy tìm cuốn kinh này, quyển luận kia đọc đau cả đầu, suy nghĩ nát óc. Đọc hết ba tạng kinh rốt cuộc rối ren thêm nhiều, chớ không nhận được cái bình thường. Tâm bình thường là đạo, hết sức đơn giản, ai cũng có nhưng tại chúng ta muốn phi thường cho oai, thành ra trở thành bất bình thường.
Tâm bình thường là tâm không nghĩ phải quấy, hơn thua, tốt xấu… Thấy biết, nghe biết, đói biết, no biết mà không nghĩ suy gì hết, đó là tâm bình thường. Cả ngày đi đứng nằm ngồi, sống như mọi người mà tâm không dấy động nên các Thiền sư thường dùng từ như ngây như ngô, không lanh lẹ như người thế gian. Chúng ta lanh lẹ quá, vừa động tới liền nghĩ đông, nghĩ tây. Nói một hiểu hai ba, thành ra phiền não điên cả đầu. Nhiều người ôm đầu nói tôi khó ngủ quá, nghĩ tứ tung hết làm sao ngủ được.
Mã Tổ ngày xưa khi thấy một vị tăng thường ngồi thiền ở hành lang, Ngài tới nắm lỗ tai thổi phù không cho ngồi. Ai không hiểu cứ nghĩ ông già chơi kỳ cục! Bởi chính Mã Tổ lúc đầu ngồi thiền tinh tấn lắm, sau này ngài Hoài Nhượng tới thử mới biết Mã Tổ chưa thông, vì kẹt trong cái ngồi. Đến khi đắc pháp nơi Tổ Hoài Nhượng rồi, hễ thấy ai ngồi thiền, Ngài liền tới thổi. Tại sao? Bởi nếu chấp cho ngồi là thiền, đó là giết thiền. Phải biết đi đứng nằm ngồi đều là thiền, chớ không phải chỉ có ngồi mới thiền.
Chúng ta đi đứng nằm ngồi trong bốn oai nghi đừng có tâm lăng xăng, sống với tâm bình thường thì không ngồi thiền, ngồi nhổ cỏ chơi cũng vẫn thiền như thường. Song nếu chưa sống với tâm bình thường thì phải ngồi thiền. Tổ sư muốn chỉ cho chúng ta thấy Thiền là vô tâm trong tất cả chỗ, tất cả thời. Vô tâm là không có tâm chạy theo, nhưng vẫn có tâm bình thường. Không nghĩ suy phân biệt mà vẫn thấy biết rõ ràng gọi là vô tâm. Nên nói nếu được tất cả chỗ vô tâm thì tất cả chỗ là đạo. Chúng ta đi đứng nằm ngồi có khi chạy lên cõi trời, có khi chui xuống địa ngục, có khi làm thánh hiền, có khi làm tướng cướp đủ thứ hết. Vì vậy mà trôi lăn trong lục đạo mãi.
Người sống với tâm bình thường thì không tạo nghiệp. Không tạo nghiệp đâu cần cầu giải thoát, nên chư Tổ thường hỏi ai trói buộc ngươi, không ai trói buộc, cầu giải thoát làm gì cho dư. Nói chuyện nghe lạ tai, nhưng xét kỹ thật là thực tế một trăm phần trăm. Phật Tổ dạy chúng ta bỏ tâm rối loạn lăng xăng điên đảo để sống với tâm bình thường sẵn có. Đó là một chuyện hết sức thực tế, chớ không phải viển vông mơ hồ ở đâu đâu. Rõ ràng chủ trương đường lối của các Ngài hết sức cụ thể, hết sức thực tế nhưng rất tiếc chúng sanh bị nhiễm thuốc điên lậm quá, chạy loạn tứ tung hết, không kềm chế nổi rồi than khó tu quá.
Chúng ta sống được với tâm bình thường, dù không cầu giải thoát tự nhiên cũng giải thoát. Bởi ta đâu có tạo nghiệp. Quí vị thử một ngày sống tâm bình thường xem có tạo nghiệp gì không? Giả sử ta lỡ dẫm chết con kiến cũng không bị định nghiệp. Tại sao? Bởi vì nghiệp do ý niệm xấu dấy lên, rồi miệng nói thân làm. Nếu thân làm mà tâm không dấy thì không thành định nghiệp.
Nói đến đây, tôi nhớ Sơ Tổ Trúc Lâm ngày xưa hết sức kỳ đặc. Khi ở ngôi vua Ngài đã thâm nhập được lý Thiền, hiểu Phật pháp rất sâu. Lúc quân Nguyên kéo binh qua xâm lược nước ta, Ngài biết nếu ra lệnh cho quân dân đánh giặc thì phạm tội sát sanh, mình giết hoặc dạy người giết. Bây giờ làm sao? Chỗ này Ngài giải quyết rất lý thú, nhưng chúng ta ít để ý đến. Ngài nghĩ mình là người chịu trách nhiệm với muôn dân, ra lệnh thì người ta làm. Nhưng ra lệnh đánh giặc tức là cố ý sát hại, như vậy ý nghiệp đã thành. Ý cộng với miệng thân nữa thì định nghiệp không thể chuyển. Nên Ngài họp tất cả tướng sĩ lại trưng cầu ý kiến, do đó mà có hội nghị Bình Than. Ngài hỏi:
- Giặc tới muốn cướp nước ta, vậy nên đánh hay nên hòa?
Tất cả tướng sĩ đồng thanh hô to:
- Đánh.
Đó là lệnh của tướng sĩ bảo phải đánh, chớ không do ý của Ngài. Hỏi tướng sĩ không chưa đủ, Ngài triệu tập hết các bô lão trong nước họp hội nghị Diên Hồng, hỏi:
- Giặc đến muốn cướp nước ta, nên đánh hay nên hòa?
Các bô lão cũng khẳng định dứt khoát:
- Đánh.
Như vậy được lệnh của tướng sĩ, được lệnh của nhân dân, Ngài chỉ làm theo mệnh lệnh thôi, chớ đâu phải Ngài ra lệnh. Chúng ta thấy Ngài khôn chưa? Vừa tránh được định nghiệp cho mình, lại vừa rất dân chủ, được mọi người quí kính. Thật quá ư là khéo! Cho nên tuy đánh giặc, có thương tổn đến nhiều sinh mạng, mà ngài không bị định nghiệp, sau này ngộ đạo thành Tổ. Hiểu như vậy chúng ta mới giải thích được chỗ này, nếu không sẽ lúng túng khi bị hỏi “Một ông vua cầm quân đánh giặc giết bao nhiêu người, lẽ ra phải đọa địa ngục, sao lại thành Tổ?”
Bất cứ tội nào cũng vậy, ý nghiệp là gốc. Nếu phạm mà không có ý nghiệp thì tội ấy có thể chuyển được. Vì vậy về sau Ngài nỗ lực tu hành, cứu dân độ thế để chuyển những tội bất đắc dĩ trước kia Ngài đã gây tạo. Đó là chỗ hay đáo để của Tổ.
Khi nói đến chỗ chân thật, nó gần gũi thực tế làm sao. Bởi vậy có nhiều Thiền sư ngộ đạo la lên khiến huynh đệ giật mình, hỏi: Huynh thấy cái gì mà ngộ? Trả lời: Nếu sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi. Nghĩa là sao? Ở nhà quê người ta thường đốt đèn trên bàn thờ, vậy mà tới giờ nấu cơm không nhớ nhà mình có lửa, chạy qua hàng xóm xin lửa về nhúm, thành ra trễ mất nồi cơm. Đến khi nhìn lên bàn thờ thấy cây đèn mới tiếc phải hồi nãy biết ngay đèn lấy lửa thì nồi cơm đã chín lâu rồi. Cũng thế, nếu sớm biết mình có Phật sẵn thì sự tu hành đã thành tựu từ lâu.
Một vị khác ở giữa chúng la lên “Tôi ngộ rồi. Tôi ngộ rồi”. Quí thầy chạy lên bạch với Hòa thượng. Hòa thượng kêu lên hỏi: Ông ngộ cái gì? Trả lời: Ni sư là cô gái làm ra. Hòa thượng gật đầu. Đơn giản làm sao! Ngoài cô gái kiếm Ni sư có không? Không. Vậy cô gái đó là Ni sư chớ ai. Một điều đơn giản, thực tế mà không ai dám nhìn, không ai dám biết, cứ tìm kiếm ở đâu đâu.
Trước kia chúng ta đi tu cũng không ngờ như thế, cứ tưởng Phật trên cõi Cực Lạc, chớ không ngờ ở ngay nơi mình. Bây giờ biết ra thì quá gần. Như vậy từ Phật tới Tổ truyền bá Thiền tông một mạch, đều chỉ thẳng tâm bình thường là đạo, chớ không có gì khác. Nhưng trải qua những giai đoạn tu tập gian khó tới cuối cùng chúng ta mới thấy được điều đó. Tại vì mình điên đảo quá nặng, quá đậm nên gở khó, thành ra việc tu chậm tiến.
Tối ngồi thiền vừa nhớ vọng tưởng liền bỏ, vậy mà bỏ hoài vẫn không hết. Tại sao? Vì khi ngồi thì bỏ, khi chạy ra thì thâu vô. Sáng thâu vô chiều bỏ ra. Tối bỏ sáng thâu, cứ như vậy hoài một đời bỏ cũng không hết. Bây giờ làm sao ngồi bỏ, đi đứng cũng bỏ, tiếp duyên xúc cảnh đều buông luôn, như vậy tu mới có kết quả. Người tu muốn đến nơi đến chốn phải cố gắng buông xả các thứ lăng xăng lộn xộn trong tâm, đừng để dính kẹt bất cứ thứ gì. Ai buông bỏ hết thị phi, tốt xấu thì trở về không khó khăn chút nào hết. Việc tu thực tế như vậy, chỉ là trở về với cái thật của chính mình thôi.
Bây giờ tôi nói đến những cái “không ngờ”. Trước khi nói điều này, tôi dẫn kinh Kim Cang. Bản kinh tuy dài nhưng trọng tâm không ngoài hai câu hỏi của ngài Tu Bồ Đề: “Người phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao hàng phục được tâm, làm sao an trụ được tâm?” Phật trả lời cách an trụ tâm trước: “Người phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không nên đối với sắc sanh tâm vướng mắc, không nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm vướng mắc. Phải ở chỗ không vướng mắc mà sanh tâm ấy”. Tức an trụ ngay chỗ không vướng mắc gọi là tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nghĩa là không cho vướng mắc với sáu trần.
Phật trả lời cách hàng phục tâm là đưa tất cả chúng sanh hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu sắc, phi vô sắc, phi hữu tưởng, phi vô tưởng đều vào Vô dư Niết-bàn. Độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng sanh được diệt độ. Chúng sanh hữu sắc là dấy niệm nhớ tới hình ảnh người. Chúng sanh vô sắc là dấy niệm nhớ tới chuyện phải quấy, tốt xấu. Tất cả những hữu tưởng, vô tưởng, hình ảnh, tâm niệm, không hình ảnh, không tâm niệm v.v… đều đưa vào Vô dư Niết-bàn. Niết-bàn có hai: Hữu dư y và Vô dư y. Hữu dư y là còn thân mà tâm được hoàn toàn thanh tịnh, không sanh diệt. Vô dư y là không còn thân và lặng hết mọi sanh diệt. Tất cả chúng sanh lăng xăng đưa vào Vô dư y, tức trong tâm không còn hình bóng, không còn sanh diệt gì hết.
Hồi xưa tôi thắc mắc Phật bảo độ tất cả chúng sanh vào Vô dư y Niết-bàn. Nếu có Phật tôi sẽ thưa: “Bạch Thế Tôn, con chưa được Niết-bàn làm sao độ tất cả chúng sanh vào Niết-bàn được?”. Nhưng bây giờ mới hiểu Vô dư y Niết-bàn là chỗ không còn niệm sanh diệt, mà niệm sanh diệt là chúng sanh. Chúng sanh lặng hết không còn sanh diệt tức là vào Vô dư y Niết-bàn. Khi tâm lặng rồi không còn thấy có chúng sanh được diệt độ. Chỗ này thâm trầm làm sao! Chúng ta tu muốn đến chỗ cứu kính, ở trong độ tất cả những chúng sanh vào Vô dư y Niết-bàn, ở ngoài đối với sáu trần không dính mắc. Đó là được tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vì vậy khi Lục Tổ Huệ Năng nghe tới câu “ưng vô sở trụ” nghĩa là không dính mắc vào bất cứ sắc trần nào, đó là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài liền thốt lên: không ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh, không ngờ tánh mình vốn không sanh diệt, không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ, không ngờ tánh mình vốn không dao động, không ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp. Ngài thốt luôn năm cái “không ngờ”. Nghe Tổ Giảng tới đây, chính Ngài cũng không ngờ bản tánh của mình như thế.
Tánh là gì? Tánh là cái có sẵn, còn đợi duyên hợp mới có là tướng chớ không phải tánh. Cho nên nói các pháp duyên hợp không tự tánh tức là các pháp không sẵn có, đợi duyên hợp mới có. Còn tánh giác của chúng ta có sẵn, không phải đợi duyên hợp. Các pháp duyên hợp mới có là không tự tánh, còn chúng ta sẵn tánh giác là có tự tánh. Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm có phẩm “Hạnh anh nhi” nói về tự tánh của chúng ta. Giống con nít vừa lọt lòng mẹ là khóc oa oa, không cần ai dạy nó. Biết khóc oa oa là biết. Rồi biết bò, biết đi là tự biết, không phải đợi dạy mới biết. Cái biết có sẵn như thế gọi là tánh.
Cũng thế, tánh giác ai cũng có sẵn, nhưng không ngờ khi thấy mới biết nó tự thanh tịnh. Chúng ta sống với tâm bình thường không động, trong sạch, không có hơn thua thì làm gì có phiền não. Cho nên tâm bình thường là tâm thanh tịnh. Nên Tổ bảo không ngờ lâu nay mình đã có sẵn tâm thanh tịnh ấy. Đó là “không ngờ” thứ nhất.
Không ngờ tánh mình vốn không sanh diệt. Vì tâm ấy không khởi niệm, mà không khởi niệm thì không sanh diệt. Đó là “không ngờ” thứ hai. Không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ. Bởi ta đã có sẵn tánh ấy từ hồi bé tới bây giờ, chớ đâu phải mới có đây. Đó là “không ngờ” thứ ba. Không ngờ tánh mình vốn không dao động. Tánh đó vốn không dao động, không nghĩ suy gì. Đó là “không ngờ thứ tư. Không ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp. Từ cái không dao động, không nghĩ suy lại hay sanh ra muôn pháp. Cho nên gọi Chân không mà Diệu hữu, nghĩa là không có một cái gì mà sanh ra tất cả. Đó là “không ngờ” thứ năm.
Như trên tôi đã nói Phật giáo Thiền tông thực tế đến không ngờ, nói đủ là Phật giáo Thiền tông thực tế đến nổi không thể ngờ. Chính Tổ thấy được như vậy nên đã thốt lên tới năm lần “không ngờ”. Nếu ngày nào chúng ta ngộ được cũng sẽ thốt lên “không ngờ” như Tổ.
Vậy Thiền tông dạy chúng ta tu để làm gì? Chỉ trở về với cái thực của chính mình. Chúng ta đang có cái ấy mà quên, đi xin đi tìm chỗ khác, như vậy gọi là gì? Phật gọi là vô minh, tức không sáng hay nói cách khác là ngu si, điên đảo. Có mà không chịu nhận chạy tìm nơi này, nơi kia vì vậy mà khổ sở; chớ thật ra Phật, Tổ đã chỉ dạy rõ ràng, không giấu chúng ta tí nào hết.
Như vậy hệ thống Thiền tông này phát nguồn từ chỗ đức Phật do dự không muốn nói, còn những hệ thống khác là Phật phương tiện mà nói. Đã là phương tiện thì không phải thật, còn chỗ thật thì không có lời. Vì vậy các Thiền sư khi muốn chỉ chỗ này thường đánh, hét, nạt v.v… mà không nói một lời. Bởi vì mở miệng là hai bên, mà hai bên thì mất cái thật rồi. Hiểu như vậy mới thấu đáo được ý nghĩa Thiền. Chỗ này chúng ta phải nắm cho thật vững.
Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tôi lặp lại chúng ta tu biết vọng không theo là đi tắt ngay chặng Xả niệm thanh tịnh, để tới chỗ vô sanh là Diệt tận định. Tuy nhiên chỗ này vẫn còn một chút phương tiện, vì còn thấy vọng và còn cái biết vọng là đối đãi, nên còn phương tiện. Tới chỗ cứu kính thì “Trong không động, ngoài không dính”. Trong không động là trong không khởi niệm, ngoài không dính là sáu căn không dính với sáu trần. Nhưng vì trong giai đoạn đầu mới công phu, chúng ta còn động nhiều, buộc lòng phải rầy, cho nên có phương tiện đối đãi, có trâu có chăn. Đến khi trâu hết thì chăn cũng không còn, đó mới là chỗ chân thật. Song đến đây cũng chưa là cứu kính, mà phải thấy rõ mình luôn hiện hữu, không vắng bóng tri giác lúc nào hết. Cái tri giác ấy không dấy động ở trong, không dính kẹt ở ngoài. Sống như vậy là sống đúng với cái chân thật của mình.
Nếu tu tập thấy đến nơi đến chốn rồi, phối hợp lại các kinh Phật dạy, chúng ta thấy thiền và kinh không hai không khác. Trên phương tiện chỉ bày có sai biệt, nhưng chỗ cứu kính cũng gặp nhau thôi. Đó là điều chúng ta cần phải hiểu cho tường tận.
HT Thích Thanh Từ
http://www.banhoangphaptw.com/
7 tháng 5, 2013
Nụ cười của Phật
Cây đào trước sân đã trụi lá chỉ còn những cành trơ. Ở đây không có Tết trong không gian, nhưng Tết vẫn đến trong thời gian. Nhưng hình như trong sâu thẳm của mỗi người, phải hội đủ cả không gian và thời gian thì mới ra Tết, mới có sự cảm nhận về Tết.
Ở trong nước, để chuẩn bị cho Tết, trước đó người ta tước lá cho mai, săn sóc cho cúc để hoa nở đúng thời gian. Ở đây, người ta dùng mai giả, anh đào giả… để tạo ra một không gian Tết. Người ta chuẩn bị để có một sự tương giao trọn vẹn giữa không gian và thời gian trong ngày Tết. Có cả thời gian và không gian, sự việc mới tròn đầy, viên mãn. Và con người thì luôn luôn đi tìm cái tròn đầy, cái toàn thể, khi có cơ hội. Và Tết là một cơ hội.
Ở chỗ giao hội giữa không gian và thời gian đó, con người cảm nhận được sự kết nối. Sự kết nối giữa người với người, với cỏ cây, với đất trời, và sự kết nối không cùng giữa vạn vật.
Chỗ giao hội đó thể hiện trong một nụ cười an lành, tự tại, kết nối, bao dung. Đó là nụ cười của đức Di Lặc, cũng là nụ cười của tất cả chư Phật, chư Tổ. Đối với người Phật tử, ngày Tết cũng là ngày vía đức Di Lặc. Và nụ cười của Ngài là ngón tay chỉ mặt trăng, là công án cho chúng ta tìm thấy mùa Xuân chân thật, mùa Xuân tiềm tàng sẵn có nơi tất cả chúng ta.
Nụ Cười Của Đức Bổn Sư
Hai lần trao truyền hai pháp môn quan trọng là hai lần chúng ta thấy kinh điển đề cập đến nụ cười của đức Bổn sư. Một lần khi Ngài trao truyền pháp môn Tịnh độ cho hoàng hậu Vi Đề Hi (Vaideli), vợ của vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra), và một lần khi Ngài trao truyền Tâm ấn Thiền cho Ngài Ma Ha Ca Diếp (Mahàkàsyapa.)
Về lần Ngài truyền Pháp môn Tịnh độ, trong Quán Kinh có đoạn:
“Ðức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa hai mày, ánh sáng ấy màu chơn kim, chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới, trở về trụ tại đỉnh đầu Phật, hóa làm đài chơn kim lớn như núi Tu Di, bao nhiêu quốc độ thanh tịnh vi diệu của mười phương chư Phật đều hiện rõ trong đài vàng ấy.
Hoặc có quốc độ thất bửu hiệp thành. Hoặc có quốc độ thuần là liên hoa. Lại có quốc độ như tự tại Thiên cung. Lại có quốc độ như gương pha lê. Có vô lượng quốc độ chư Phật như vậy trang nghiêm xinh đẹp, khiến Vi Ðề Hi được thấy.
Vi Ðề Hi bạch Phật rằng:” Bạch đức Thế Tôn! Dầu các Phật độ ấy đều thanh tịnh đều có quang minh. Nay tôi thích sanh về Cực Lạc thế giới, chỗ của đức Phật A Di Ðà. Duy nguyện đức Thế Tôn dạy tôi tư duy, dạy tôi chánh thọ”.
Ðức Thế Tôn liền mĩm cười, có ánh sáng ngũ sắc từ miệng Phật phóng ra, mỗi mỗi ánh sáng chiếu đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La.
Dầu bị giam cầm ngục tối, tâm nhãn vua không chướng ngại xa thấy đức Thế Tôn, vua đầu mặt lạy Phật, tự nhiên tăng tiến đạo lực thành bực A Na Hàm.
(Kinh Quan Vô Lượng Thọ – HT Thich Trí Tịnh dịch)
Khi đọc Quán Kinh, thường chúng ta không để ý đến nụ cười của đức Phật. Có thể hoàng hậu Vi Đề Hi cũng không hiểu nụ cười đó của đức Phật, nhưng chắc chắn vua Tần Bà Sa La đã hiểu. Ngay sau khi nhìn thấy đức Thế Tôn với ánh sáng phóng ra từ miệng đang mỉm cười, ông liền chứng quả A Na Hàm, một quả vị giải thoát không tái sanh lại trong thế gian.
Nụ cười đó là nụ cười đem con người từ khổ đau đến an vui, đem con người ra khỏi ngục tù để đi vào một đời sống tự do thênh thang. Đó là nụ cười chứa đầy ánh sáng, thứ ánh sáng có thể nhổ sạch những vướn mắc, khổ đau, xóa sạch những tối tăm, bất tịnh.
Ánh sáng đó mở ra một thế giới thanh tịnh, một thế giới không còn ngăn ngại. Dầu bị giam cầm ngục tối, tâm nhãn vua không chướng ngại, vẫn xa thấy đức Thế Tôn.Đó là thế giới mà vạn pháp kết nối và dung thông nhau, một thế giới không còn giới hạn vào không gian và thời gian, ở đó không gian và thời gian là một. Thế giới đó chỉ có thể tỏ bày bằng sự im lặng hay một nụ cười.
Theo truyền thống Thiền, một hôm trong Pháp hội ở Linh Sơn, đức Phật đưa lên một cành hoa sen trước đại chúng, miệng mỉm cười. Tất cả đại chúng đều yên lặng ngơ ngác. Khi đó chỉ có ngài Ca Diếp nhìn Phật mỉm cười. Đức Phật nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, nay trao cho Ma Ha Ca Diếp.”
Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm là mục đích cứu cánh của Thiền nói riêng và của Phật giáo nói chung. Nhưng đó cũng là cái mà chúng ta đang sống từng phút giây trong đó mà không hề hay biết. Và khi nào chúng ta nhận ra được cái đó là lúc chúng ta thật sự nhìn thấy không gian và thời gian. Hoa sen và nụ cười, đó là không gian và thời gian. Đó là lúc con người dừng lại thời gian là tâm thức để là một với không gian là hoa sen. Không gian và thời gian gặp nhau và dừng lại ở chỗ đó, ở nụ cười của đức Phật, của Ngài Ma Ha Ca Diếp. Khi không gian và thời gian là một thì cũng không còn không gian và thời gian. Đó là Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm. Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm là một cái toàn thể. Một sự việc hiện ra riêng rẽ thì có trước có sau, có chỗ nầy có chỗ kia, có tốt có xấu. Nhưng cái toàn thể thì vượt ra ngoài những tính chất đó, vượt ra ngoài không gian và thời gian.
Hai lần mỉm cười của đức Phật mang cùng một ý nghĩa. Đó là ý nghĩa của hy vọng và giải thoát. Hy vọng là hướng về một tương lai không phải là bây giờ, giải thoát là hướng về một nơi chốn không phải là ở đây. Nụ cười của đức Phật làm cho hy vọng đơm hoa ngay bây giờ và giải thoát kết trái ngay nơi đây.
Đứng trước sự vô thường và khổ đau, con người mong cầu một cái gì vĩnh cữu và không khổ đau. Nhưng khi vẫn còn sống trong dòng thời gian không ngừng trôi thì không gian sẽ vẫn còn đổi thay, biến dịch. Lúc đó sẽ không có bình an và hạnh phúc. Chỉ khi nào thời gian không còn tách rời với không gian, khi nào con người nắm bắt được cái hiện tại, nhìn thấy được cái khoảng cách giữa hai khoảnh khắc của thời gian hay giữa hai niệm tưởng tiếp nối, khi đó mới có bình an, hạnh phúc. Khi đó chúng ta mới đón nhận được nụ cười của đức Phật và tự mình mới có thễ chân thật mĩm cười.
Đó là niềm ước vọng ngàn đời của con người. Và ngày Tết trong một ý nghĩa nào đó nói lên cái ước vọng dừng lại ngàn đời đó.
Đến Nụ Cười Của Ngài Di Lặc
Từ Thị hay Di Lặc tiếng Phạn là Maitreya là vị Bồ tát được đức Thích Ca Mâu Ni thọ ký sẽ thành Phật trong thế giới nầy kế sau Ngài.
Theo giáo lý Nam Tông cũng như Bắc Tông, trú xứ hiện tại của đức Di Lặc là cung trời Đâu Suất, và Ngài sẽ ra đời chứng quả Vô Thượng Chánh Giác để hóa độ trời và người khi giáo pháp của đức Thích Ca không còn dấu vết trên thế gian.
Trong khoảng thời gian đến khi chứng quả Phật, đức Di Lặc vẫn theo dõi và thủ hộ thế gian. Một phần trong việc thủ hộ thế gian của Ngài là thường xuất hiện trong thế gian dưới nhiều hình thức để dẫn dắt chúng sanh thăng tiến theo hướng chân chính.
Vì hạnh nguyện của Ngài và niềm hy vọng của thế gian về sự xuất hiện của Ngài, Ngài thường được tôn thờ như một vị Phật. Bồ tát Long Thọ, vị tổ của giáo lý Trung Quán, nói rằng sự thờ kính đức Di Lặc là một con đường dễ dàng dẫn đến giác ngộ bằng tha lực.
Trong Phật giáo chúng ta thường có cụm từ “Xuân Di Lặc.” Xuân Di Lặc là Xuân an vui, như hình ảnh của đức Di Lặc lúc nào cũng tươi cười thong dong trong thế giới của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Kinh Pháp Hoa nói:
“…Trong hàng tám trăm người đệ tử có một người tên Cầu Danh, người nầy tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng Kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất nên gọi là Cầu Danh. Người nầy cũng do có trồng các nhơn duyên căn lành nên đặng gặp vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật mà cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Di Lặc nên biết! Lúc đó Diệu Quang Bồ Tát đâu phải người nào lạ, chính là ta (Văn Thù) đấy. Còn Cầu Danh Bồ Tát chính là ngài đấy…”
(Kinh Pháp Hoa – Phẩm Tựa)
Đó là sự hòa nhập trong thế gian, xúc chạm với thế gian. Nếu không có sự hòa nhập đó, không có sự xúc chạm đó, Ngài đã không được đức Thích Ca Mâu Ni thọ ký cho sẽ thành Phật tiếp sau Ngài. Hòa nhập mà không hòa nhập, xúc chạm mà rời xúc chạm. Đó là nụ cười vừa từ bi vừa trí tuệ, vừa ôm vạn pháp trong lòng vừa biết rằng các pháp là không thật, không có tự tánh.
Thiền sư Đàm Cứu Chỉ thời Lý viết: “Thấu rõ chúng sanh chỉ là một pháp, chứ không phải hai. Không bỏ nghiệp cảnh đó là phương tiện thiện xảo. [Như thế] thì ở trong thế giới hữu vi mà chỉ rõ được pháp hữu vi và không phân biệt với tướng vô vi. Đó là vì muốn dứt bỏ mọi vọng niệm, mọi sự phân biệt mà thôi.” (Tâm Pháp – Băng Thanh dịch.)
Có người hỏi Tuệ Trung Thượng sĩ:
- Dật Đa (Di Lặc) không tu định huệ, tại sao vẫn thành Phật?
Sư đáp:
Đào thắm trên cây thời tiết đúng
Cúc vàng bên dậu chẳng là Xuân!
(Hồng đào thụ thượng chân thời tiết
Hồng cúc ly biên bất thị Xuân)
(Thượng Sỹ Ngữ Lục)
Nụ cười của đức Di Lặc chỉ cho chúng ta thấy rằng đào thắm, cúc vàng, thời tiết chẳng làm nên được mùa Xuân. Mùa Xuân vốn có sẵn trong pháp giới cũng như trong tâm của mọi người. Mùa Xuân đó không ở trong không gian hay thời gian. Nó vốn có sẵn nhưng chỉ được nhìn thấy và sống với khi có thể dừng lại ngay trong dòng biến dịch của thời gian để thấy được phút giây hiện tại, phút giây chứa đựng cả không gian và thời gian, là chỗ mà không gian và thời gian gặp nhau, chỗ mà trong thâm sâu của tâm thức, con người muốn đi tìm trong ngày Tết. Đó là Phật Tánh tiềm ẩn trong mọi chúng sanh.
Trong Uttaratantra, đức Di Lặc mặc khải cho ngài Vô Trước giáo lý Phật Tánh có sẵn trong tâm của mọi chúng sanh có đoạn sau đây:
Bảo tàng nằm dưới nền nhà của kẻ nghèo khó
Nhưng vì y không biết có bảo tàng
Nên không biết rằng mình là người giàu có.
Cũng thế, trong tâm mỗi người đều có sẵn chân lý bất hoại
Nhưng vì không thấy được nó,
Con người trôi theo dòng đau khổ không ngừng.
Bảo tàng nằm dưới nền nhà của kẻ nghèo khó
Y không nói rằng mình có một kho bảo tàng
Vì y không biết nó.
Cũng thế, kho tàng chân lý nằm trong căn nhà tâm,
Nhưng con người sống nghèo nàn vì thiếu nó.
Do đó người nhìn thấy sinh ra và sống thanh tịnh trong thế gian
Để mở bày kho bảo tàng vốn sẵn đó.
Đức Di Lặc là đấng đang và sẽ mở bày kho bảo tàng vốn sẵn đó. Ngài đi trong khắp thế gian để chuẩn bị cho sự thành tựu lớn của thế gian trong tương lai.
“Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói :“Không khởi tu thiền định, không vọng trừ phiền não. Phật thọ ký cho người này thành Phật không nghi”.
Học sĩ Trần Tú Ngọc có lần hỏi Tổ Vạn Tùng rằng : “Ðức Di Lặc Bồ Tát vì sao chẳng tu thiền định, chẳng dứt trừ phiền não ?”
Tổ Tùng đáp : “Chân Tâm vốn tịnh, nên chẳng tu thiền định. Vọng tưởng vốn không, nên chẳng dứt lìa phiền não”.
Học sĩ lại đem câu này hỏi Ngài Hương Sơn Ðại Nhuận Hòa Thượng. Ngài đáp : “Tâm Thiền vốn định, chẳng trở lại tu. Phiền não tịch diệt, chẳng cần lại đoạn”.
Học sĩ lại đem hỏi Ngài Trúc Lâm Hải Cự Xuyên. Tổ Xuyên đáp :“Vốn không có thiền định, phiền não !”
Học sĩ nói : “Chỉ có thế này mới khoái !”
(Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông)
Hình ảnh đức Di Lặc mà người Trung hoa và Việt nam hay thờ là hình ảnh của một vị Thiền sư tên là Bố Đại (Bố Đại Hòa Thượng). Tương truyền Ngài là một hóa thân của đức Di Lặc. Khi sắp tịch Ngài ngồi ngay thẳng trên bàn thạch dưới đông lang ở chùa Nhạc Lâm, nói bài kệ:
Di Lặc chơn Di Lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhơn
Thời nhơn giai bất thức.
(Di Lặc thật Di Lặc
Phân thân nghìn trăm ức
Luôn luôn chỉ dạy người
Người đời không tự biết.)
Theo Priyanshu Shrivastava, những ý tưởng về hình tượng của Phật Di Lặc xuất phát từ những tin tưởng về sau của người Phật tử rằng đời sống tốt đẹp và xứng ý có thể đạt được trong thế gian nầy. Nó có thể có được qua việc sống một đời sống đơn giản, cố gắng chân chính, lòng rộng lượng và sự hiểu biết.
Nụ cười của Phật cũng nói lên cái nhìn vào thế gian bằng cái nhìn hài hước. Nụ cười hài hước không mâu thuẩn với nụ cười bao dung. Khi nhìn từ cái toàn thể, thấy con người cũng đầy đủ Tánh Phật lại lăng xăng trong những cái đối kháng nhau, miệt mài với những mảnh vụn không thật, thật đáng cười mà cũng đáng yêu biết mấy.
Tuy nhiên, hình ảnh đức Di Lặc bụng lớn miệng cười xề xòa đã bị thế gian hóa nặng nề theo thời gian và càng ngày càng bớt đi sự truyền cảm.
Theo niềm tin của người Trung hoa, hình ảnh đức Phật cười có thể đem đến sự may mắn, thành công, hạnh phúc, mãn nguyện, sung túc và giàu có. Qua thời gian, hình ảnh Phật giáo bị người Trung hoa làm pha trộn bằng những lý tưởng Trung hoa về đời sống và sự hạnh phúc. Sự pha trộn đó đã làm lệch lạc những lý tưởng và giá trị nguyên thủy của Phật giáo. Và ngày nay, hạnh phúc đã trở thành đồng nghĩa với sự giàu có về vật chất. Hình ảnh đức Phật Di Lặc trở thành một vị thần được sùng bái với hy vọng có được của cải dồi dào và cuộc sống may mắn. Hình tượng đức Phật Di Lặc bị đồng hóa với “ông địa” trong tín ngưỡng dân gian của Trung hoa.
Trong thời buổi mà vật chất đang đè bẹp con người, chúng ta nên trở về tìm lại nụ cười nguyên sơ của đức Di Lặc, cũng là nụ cười của tất cà chư Phật. Về hình tướng, chúng ta nên trở về với hình ảnh truyền thống của Ngài còn tồn tại ở Ấn Độ và Tây tạng.
Tóm lại, đức Phật Di Lặc là đức Phật của tương lai, là niềm hy vọng cho tương lai. Niềm hy vọng nầy được xây dựng ngay từ bây giờ, bằng hạnh phúc và an lạc ngay bây giờ và ở đây. Hạnh phúc hiện tại sẽ là nền tảng cho hạnh phúc tương lai. Sống trong mùa Xuân hiện tại là để thành tựu cho một Mùa Xuân Lớn trong tương lai.
Nụ Cười Của Tiền Nhân
Cư Trần Lạc Đạo Phú của Trần Nhân Tông có đoạn:
Biết vậy !
Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác
Gìn tính sáng tính mới hầu an
Nén niềm vọng niềm dừng chẳng thác
Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương
Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác
Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi mựa phải nhọc tìm về cực lạc …
Các Thiền sư Việt Nam thường dùng hình ảnh mùa Xuân để diễn tả tâm an lạc của giác ngộ, cái tâm luôn mới mẻ, luôn tràn đầy. Vua Trần Nhân Tông dùng chữ Được Lòng để nói lên trạng thái tâm cảnh nhứt như đó. Và đó là nụ cười của Thiền sư Giác Hoàng.
Được Lòng có nghĩa là được Tâm, thấy được Phật Tánh, Pháp Thân. Đó là thấy được nền tảng thanh tịnh và trong sáng bản nhiên của vạn pháp, thấy được sự kết nối trùng trùng duyên khởi, luôn luôn biến dịch nhưng luôn luôn hòa điệu của pháp giới.
Được Lòng trong tiếng Việt có nghĩa là được cả tâm mình lẫn tâm người. Cái tâm được cả mình và người là cái tâm phổ quát, nguyên sơ. Tâm đó là Tâm Phật. Khi được tâm mình mà không được tâm người thì có nghĩa là chưa đủ, chưa trọn vẹn, hay chưa đúng. Một dấu hiệu của sự Được Lòng hay giác ngộ là thấy rằng chúng ta và tất cả mọi người đều bình đẳng, đều như nhau trong nền tảng của sự sống; rằng chúng ta và mọi người, mọi loài có sự kết nối không thể tháo gỡ trong bản thể của chúng ta và của mọi sự vật; tất cả chúng ta đều cùng tròn đủ Tánh Phật. Sự kết nối với con người, với vạn vật đó được Thiền Sư Mãn Giác nói lên qua hình ảnh một cành mai, được Trần Nhân Tông nói lên qua hình ảnh một đóa hồng đang rơi, hay hình ảnh hai người cùng đứng lặng chìm mình trong thiên nhiên. Nhìn thấy sự kết nối của mọi sự mọi vật đó là nhìn thấy bản chất của sự sống, là dứt trừ nhơn-ngã. “Đó là cái thấy không phân ly, một là tất cả và tất cả là một, ngay ở đây và bây giờ. Đó là cái thấy không ta, không người, không chúng sanh, không người thọ, đồng thời cũng là cảnh giới Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Đó là Tâm, Tâm Phật cũng là Tâm của tất cả chúng sanh.”
Được Lòng trong ngôn ngữ Việt Nam còn nói lên sự thỏa mãn trọn vẹn. Sự thỏa mãn trọn vẹn đó là niềm vui dàn trải từ bên trong đến bên ngoài. Niềm vui đó là sự Được Lòng, là nắm được cái nền tảng, cái cốt tủy của đời sống.
Như vậy Được Lòng có nghĩa là sống trong Pháp Tánh, trong sơ tâm, thấy rõ không qua suy luận tánh vô ngã rỗng rang của mỗi chúng ta và người khác, đồng thời cũng thấy rõ rằng chúng ta và mọi người, mọi loài đều có sự kết nối trong nhau.
(Thị Giới, Vài Nét Đặc Trưng Của Phật Giáo Việt Nam)
Đạo Phật là đạo của niềm vui. Người Phật tử là người biết yêu mến cuộc sống. Nói như Thanissaro Bhikkhu, “Đức Phật không bao giờ đòi hỏi chúng ta đóng khung tâm thức trong việc phủ nhận thế gian hay khẳng định thế gian. Ngài muốn chúng ta khám phá thế gian.” (Niềm Vui Tinh Tấn.) Đời sống là môi trường, là phòng thí nghiệm để chúng ta khám phá sự sống, khám phá ra rằng chính đời sống là một bảo tàng. Từ đời sống chúng ta khám phá ra niềm vui, ra cái Được Lòng. Niềm vui đó, cái Được Lòng đó chỉ có thể thành tựu trong sự hợp nhứt, trong cái toàn thể. Và sự thành tựu đó chỉ xảy ra trong sự giao hội hài hòa giữa không gian và thời gian.
Thiền sư Mãn Giác thời Lý có bài kệ Thị Tịch:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa tươi
Việc đời qua trước mắt
Trên đầu già đến rồi.
Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.)
Đó là không gian không ngăn cách và thời gian không hạn cuộc. Đêm qua sân trước là thời gian và không gian. “Một cành mai” là cái xúc tác để thời gian của “đêm qua” và không gian của “sân trước” được hiển bày trong sự hợp nhứt, trong cái toàn thể. Nếu không có một cành mai thì đêm qua sân trước vẫn là đêm qua sân trước, vẫn là một toàn thể hợp nhất của không gian và thời gian. Và khi bắt được thời gian và không gian đó, nhận ra được khuôn mặt thật của mùa Xuân, cũng là khuôn mặt thật của bốn mùa Xuân, Hạ, Thu và Đông, thì liền có được niềm vui bất tuyệt như vua Trần Nhân Tông đã thốt:
Như kim khám phá Ðông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
(Khuôn mặt chúa Xuân nay khám phá
Ngồi trên thiền đệm ngắm hoa rơi.)
Như chúng ta đều biết, vua Trần Nhân Tông là một vị vua lãnh đạo chiến thắng hai cuộc chống ngoại xâm Nguyên Mông, tổ chức thành công Hội Nghị Diên Hồng, xây dựng một xã hội đạo đức, thanh bình, có nề nếp, cũng là vị vua đã mở mang bờ cõi trong tinh thần hòa bình. Như vậy, Đuợc Lòng, nụ cười của Phật giáo Việt nam nói riêng và của Phật giáo nói chung, là một nụ cười gắn bó và hòa nhịp với bước chân của thời đại, nhân sinh, xã hội và con người, là Thực tại sống động ở ngay đây và bây giờ.
Và Nụ Cười Của Chúng ta
Nụ cười của Phật mất đi trên thế gian khi chúng ta chìm vào trong tham, sân, si, mạn, nghi. Nó mất đi khi chúng ta sống một đời sống ngăn cách, xa lìa, chia chẻ, bất hòa. Nụ cười đó cũng mất đi khi chúng ta không còn biết lắng nghe, không còn biết chiêm ngưỡng, tôn trọng, yêu mến và biết ơn những cái đẹp của đời sống. Nụ cười đó cũng không còn nữa khi chúng ta không hòa nhập được vào dòng sống của thời đại, của xã hội, không đồng hành cùng con người và thời đại chúng ta đang sống.
Chúng ta hãy nhìn bằng cái nhìn “Bốn mắt nhìn nhau” (*) để có thể nhìn sâu vào nhau, để có thể nhìn được Phật tánh của nhau.
Chúng ta hãy chúc nhau bằng lời chúc của ngài Chân Nguyên:
Quốc gia vĩnh cữu, ngôi báu kim luân và trời đất trường tồn.
Phật đạo không cùng, nối Tổ truyền Tông cùng Thứu Phong chẳng mất.
Hãy lấy nụ cười của Phật làm nền tảng, làm con mắt cho những lời chúc đó. Khi xã hội có nền tảng, có con mắt thì nó mới phát triển đúng hướng, con người trong đó mới có hạnh phúc, và đất nước mới thanh bình, giàu mạnh.
Nụ cười đó thật sự vẫn mãi mãi tồn tại trong tâm của mỗi người, đó là Phật tánh vốn sẵn của mỗi người. Để khơi lại nụ cười đó, chúng ta cần phát triển và đào sâu cái nhìn, cái thấy để cảm thông, để có tình thương, trách nhiệm, lòng lân mẫn và biết đối xử bằng trái tim ấm áp với mọi người, mọi loài, hữu tình hay vô tình.
Nụ cười đó không phải khó nhọc đi tìm như chàng trai kia cột đá vào lưng, nhọc nhằn leo lên đầu núi thẳm để tìm kiếm, như trong một cuốn phim của Đại Hàn có tên Xuân Hạ Thu Đông. Nhưng nụ cười đó nằm ngay trong cuộc sống bình thường, đói ăn khát uống, đúng thời khắc thì tự tại ra đi như của vị Thầy.
Nụ cười đó vốn sẵn ngay đây và bây giờ, ở ngay trong điểm giao hội giữa không gian và thời gian mà chúng ta dễ cảm nhận qua ngày Tết, qua mùa Xuân. Khi tâm thức dừng lại, “không nghĩ thiện, không nghĩ ác” (**), khi tâm thức xả bỏ mọi thứ trong quá khứ (của năm cũ) và chưa nhọc nhằn tính toán cho tương lai, Phật Tánh sẽ chiếu qua chỗ dừng nghỉ đó để hiển lộ. Hãy chộp lấy nó và gìn giữ nó. Khi chúng ta chộp bắt được nền tảng của mùa Xuân, chúng ta sẽ chộp bắt được nền tảng của sự tương giao giữa chúng ta và thế giới, giữa chúng ta và cái nền tảng nằm bên sau và bao trùm mọi hiện tượng, mọi tưởng niệm. Khi đó chúng ta Được Lòng. Khi Được Lòng rồi, như lời dạy của các Thiền sư, chúng ta hãy khéo quán sát và giữ gìn Nó.
Hy vọng nụ cười của Phật sẽ vẫn nở cho đến khi mọi người đều nhìn thấy và cảm nhận. Và cũng hy vọng rằng mùa Xuân sẽ là một môi trường để chúng ta dừng lại và nhìn thấy nụ cuời đó, như tiền nhân của chúng ta đã từng làm.
Xin chúc mọi người:
Xuân đến, Xuân đi, Xuân bất tận,
Vui hoài, vui mãi, vui không cùng.
Thị Giới
http://buddhahome.net/phatphap/tongquat/
_______________________________________
Chú thích:
(*) Năm 19 tuổi, Thiền Sư Chân Nguyên lên chùa Hoa Yên vào yết kiến Thiền sư Tuệ Nguyệt (Chân Trú).
Thiền sư Tuệ Nguyệt hỏi:- Ngươi ở đâu đến đây ?
Sư thưa:- Vốn không đi lại.
Tuệ Nguyệt biết Sư là pháp khí sau này, bèn thế phát xuất gia cho pháp danh là Tuệ Đăng. Sau không bao lâu Tuệ Nguyệt tịch. Sư cùng bạn đồng liêu là Như Niệm phát nguyện tu hạnh đầu-đà đi du phương để tham vấn Phật pháp. Thời gian sau, Như Niệm đổi ý trở về trụ trì chùa Cô Tiên. Sư đi lên chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham vấn Thiền sư Minh Lương là đệ tử của Chuyết Chuyết.
Sư hỏi: – “Bao năm dồn chứa ngọc trong đãy, hôm nay tận mặt thấy thế nào” là sao ?
Thiền sư Minh Lương đưa mắt nhìn thẳng vào Sư, Sư nhìn lại, liền cảm ngộ, sụp xuống lạy. Minh Lương bảo:
- Dòng thiền Lâm Tế trao cho ông, ông nên kế thừa làm thạnh ở đời.
Minh Lương đặt cho Sư pháp hiệu là Chân Nguyên và bài kệ phó pháp:
Ngọc quý ẩn trong đá
Hoa sen mọc từ bùn
Nên biết chỗ sinh tử
Ngộ vốn thật Bồ-đề.
(Mỹ ngọc tàng ngoan thạch
Liên hoa xuất ứ nê
Tu tri sinh tử xứ
Ngộ thị tức Bồ-đề.)
Chính vì chỗ ngộ này, sau Sư soạn quyển “Trần Triều Thiền Tôn Chỉ Nam Truyền Tâm Quốc Ngữ Hành” có cả thảy bảy lần nói về “Tứ mục tương cố” (bốn mắt nhìn nhau).(HT Thích Thanh Từ.)
(**) Ngài Huệ Năng, Pháp Bảo Đàn Kinh.
Ở trong nước, để chuẩn bị cho Tết, trước đó người ta tước lá cho mai, săn sóc cho cúc để hoa nở đúng thời gian. Ở đây, người ta dùng mai giả, anh đào giả… để tạo ra một không gian Tết. Người ta chuẩn bị để có một sự tương giao trọn vẹn giữa không gian và thời gian trong ngày Tết. Có cả thời gian và không gian, sự việc mới tròn đầy, viên mãn. Và con người thì luôn luôn đi tìm cái tròn đầy, cái toàn thể, khi có cơ hội. Và Tết là một cơ hội.
Ở chỗ giao hội giữa không gian và thời gian đó, con người cảm nhận được sự kết nối. Sự kết nối giữa người với người, với cỏ cây, với đất trời, và sự kết nối không cùng giữa vạn vật.
Chỗ giao hội đó thể hiện trong một nụ cười an lành, tự tại, kết nối, bao dung. Đó là nụ cười của đức Di Lặc, cũng là nụ cười của tất cả chư Phật, chư Tổ. Đối với người Phật tử, ngày Tết cũng là ngày vía đức Di Lặc. Và nụ cười của Ngài là ngón tay chỉ mặt trăng, là công án cho chúng ta tìm thấy mùa Xuân chân thật, mùa Xuân tiềm tàng sẵn có nơi tất cả chúng ta.
Nụ Cười Của Đức Bổn Sư
Hai lần trao truyền hai pháp môn quan trọng là hai lần chúng ta thấy kinh điển đề cập đến nụ cười của đức Bổn sư. Một lần khi Ngài trao truyền pháp môn Tịnh độ cho hoàng hậu Vi Đề Hi (Vaideli), vợ của vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra), và một lần khi Ngài trao truyền Tâm ấn Thiền cho Ngài Ma Ha Ca Diếp (Mahàkàsyapa.)
Về lần Ngài truyền Pháp môn Tịnh độ, trong Quán Kinh có đoạn:
“Ðức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa hai mày, ánh sáng ấy màu chơn kim, chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới, trở về trụ tại đỉnh đầu Phật, hóa làm đài chơn kim lớn như núi Tu Di, bao nhiêu quốc độ thanh tịnh vi diệu của mười phương chư Phật đều hiện rõ trong đài vàng ấy.
Hoặc có quốc độ thất bửu hiệp thành. Hoặc có quốc độ thuần là liên hoa. Lại có quốc độ như tự tại Thiên cung. Lại có quốc độ như gương pha lê. Có vô lượng quốc độ chư Phật như vậy trang nghiêm xinh đẹp, khiến Vi Ðề Hi được thấy.
Vi Ðề Hi bạch Phật rằng:” Bạch đức Thế Tôn! Dầu các Phật độ ấy đều thanh tịnh đều có quang minh. Nay tôi thích sanh về Cực Lạc thế giới, chỗ của đức Phật A Di Ðà. Duy nguyện đức Thế Tôn dạy tôi tư duy, dạy tôi chánh thọ”.
Ðức Thế Tôn liền mĩm cười, có ánh sáng ngũ sắc từ miệng Phật phóng ra, mỗi mỗi ánh sáng chiếu đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La.
Dầu bị giam cầm ngục tối, tâm nhãn vua không chướng ngại xa thấy đức Thế Tôn, vua đầu mặt lạy Phật, tự nhiên tăng tiến đạo lực thành bực A Na Hàm.
(Kinh Quan Vô Lượng Thọ – HT Thich Trí Tịnh dịch)
Khi đọc Quán Kinh, thường chúng ta không để ý đến nụ cười của đức Phật. Có thể hoàng hậu Vi Đề Hi cũng không hiểu nụ cười đó của đức Phật, nhưng chắc chắn vua Tần Bà Sa La đã hiểu. Ngay sau khi nhìn thấy đức Thế Tôn với ánh sáng phóng ra từ miệng đang mỉm cười, ông liền chứng quả A Na Hàm, một quả vị giải thoát không tái sanh lại trong thế gian.
Nụ cười đó là nụ cười đem con người từ khổ đau đến an vui, đem con người ra khỏi ngục tù để đi vào một đời sống tự do thênh thang. Đó là nụ cười chứa đầy ánh sáng, thứ ánh sáng có thể nhổ sạch những vướn mắc, khổ đau, xóa sạch những tối tăm, bất tịnh.
Ánh sáng đó mở ra một thế giới thanh tịnh, một thế giới không còn ngăn ngại. Dầu bị giam cầm ngục tối, tâm nhãn vua không chướng ngại, vẫn xa thấy đức Thế Tôn.Đó là thế giới mà vạn pháp kết nối và dung thông nhau, một thế giới không còn giới hạn vào không gian và thời gian, ở đó không gian và thời gian là một. Thế giới đó chỉ có thể tỏ bày bằng sự im lặng hay một nụ cười.
Theo truyền thống Thiền, một hôm trong Pháp hội ở Linh Sơn, đức Phật đưa lên một cành hoa sen trước đại chúng, miệng mỉm cười. Tất cả đại chúng đều yên lặng ngơ ngác. Khi đó chỉ có ngài Ca Diếp nhìn Phật mỉm cười. Đức Phật nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, nay trao cho Ma Ha Ca Diếp.”
Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm là mục đích cứu cánh của Thiền nói riêng và của Phật giáo nói chung. Nhưng đó cũng là cái mà chúng ta đang sống từng phút giây trong đó mà không hề hay biết. Và khi nào chúng ta nhận ra được cái đó là lúc chúng ta thật sự nhìn thấy không gian và thời gian. Hoa sen và nụ cười, đó là không gian và thời gian. Đó là lúc con người dừng lại thời gian là tâm thức để là một với không gian là hoa sen. Không gian và thời gian gặp nhau và dừng lại ở chỗ đó, ở nụ cười của đức Phật, của Ngài Ma Ha Ca Diếp. Khi không gian và thời gian là một thì cũng không còn không gian và thời gian. Đó là Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm. Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm là một cái toàn thể. Một sự việc hiện ra riêng rẽ thì có trước có sau, có chỗ nầy có chỗ kia, có tốt có xấu. Nhưng cái toàn thể thì vượt ra ngoài những tính chất đó, vượt ra ngoài không gian và thời gian.
Hai lần mỉm cười của đức Phật mang cùng một ý nghĩa. Đó là ý nghĩa của hy vọng và giải thoát. Hy vọng là hướng về một tương lai không phải là bây giờ, giải thoát là hướng về một nơi chốn không phải là ở đây. Nụ cười của đức Phật làm cho hy vọng đơm hoa ngay bây giờ và giải thoát kết trái ngay nơi đây.
Đứng trước sự vô thường và khổ đau, con người mong cầu một cái gì vĩnh cữu và không khổ đau. Nhưng khi vẫn còn sống trong dòng thời gian không ngừng trôi thì không gian sẽ vẫn còn đổi thay, biến dịch. Lúc đó sẽ không có bình an và hạnh phúc. Chỉ khi nào thời gian không còn tách rời với không gian, khi nào con người nắm bắt được cái hiện tại, nhìn thấy được cái khoảng cách giữa hai khoảnh khắc của thời gian hay giữa hai niệm tưởng tiếp nối, khi đó mới có bình an, hạnh phúc. Khi đó chúng ta mới đón nhận được nụ cười của đức Phật và tự mình mới có thễ chân thật mĩm cười.
Đó là niềm ước vọng ngàn đời của con người. Và ngày Tết trong một ý nghĩa nào đó nói lên cái ước vọng dừng lại ngàn đời đó.
Đến Nụ Cười Của Ngài Di Lặc
Từ Thị hay Di Lặc tiếng Phạn là Maitreya là vị Bồ tát được đức Thích Ca Mâu Ni thọ ký sẽ thành Phật trong thế giới nầy kế sau Ngài.
Theo giáo lý Nam Tông cũng như Bắc Tông, trú xứ hiện tại của đức Di Lặc là cung trời Đâu Suất, và Ngài sẽ ra đời chứng quả Vô Thượng Chánh Giác để hóa độ trời và người khi giáo pháp của đức Thích Ca không còn dấu vết trên thế gian.
Trong khoảng thời gian đến khi chứng quả Phật, đức Di Lặc vẫn theo dõi và thủ hộ thế gian. Một phần trong việc thủ hộ thế gian của Ngài là thường xuất hiện trong thế gian dưới nhiều hình thức để dẫn dắt chúng sanh thăng tiến theo hướng chân chính.
Vì hạnh nguyện của Ngài và niềm hy vọng của thế gian về sự xuất hiện của Ngài, Ngài thường được tôn thờ như một vị Phật. Bồ tát Long Thọ, vị tổ của giáo lý Trung Quán, nói rằng sự thờ kính đức Di Lặc là một con đường dễ dàng dẫn đến giác ngộ bằng tha lực.
Trong Phật giáo chúng ta thường có cụm từ “Xuân Di Lặc.” Xuân Di Lặc là Xuân an vui, như hình ảnh của đức Di Lặc lúc nào cũng tươi cười thong dong trong thế giới của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Kinh Pháp Hoa nói:
“…Trong hàng tám trăm người đệ tử có một người tên Cầu Danh, người nầy tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng Kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất nên gọi là Cầu Danh. Người nầy cũng do có trồng các nhơn duyên căn lành nên đặng gặp vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật mà cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Di Lặc nên biết! Lúc đó Diệu Quang Bồ Tát đâu phải người nào lạ, chính là ta (Văn Thù) đấy. Còn Cầu Danh Bồ Tát chính là ngài đấy…”
(Kinh Pháp Hoa – Phẩm Tựa)
Đó là sự hòa nhập trong thế gian, xúc chạm với thế gian. Nếu không có sự hòa nhập đó, không có sự xúc chạm đó, Ngài đã không được đức Thích Ca Mâu Ni thọ ký cho sẽ thành Phật tiếp sau Ngài. Hòa nhập mà không hòa nhập, xúc chạm mà rời xúc chạm. Đó là nụ cười vừa từ bi vừa trí tuệ, vừa ôm vạn pháp trong lòng vừa biết rằng các pháp là không thật, không có tự tánh.
Thiền sư Đàm Cứu Chỉ thời Lý viết: “Thấu rõ chúng sanh chỉ là một pháp, chứ không phải hai. Không bỏ nghiệp cảnh đó là phương tiện thiện xảo. [Như thế] thì ở trong thế giới hữu vi mà chỉ rõ được pháp hữu vi và không phân biệt với tướng vô vi. Đó là vì muốn dứt bỏ mọi vọng niệm, mọi sự phân biệt mà thôi.” (Tâm Pháp – Băng Thanh dịch.)
Có người hỏi Tuệ Trung Thượng sĩ:
- Dật Đa (Di Lặc) không tu định huệ, tại sao vẫn thành Phật?
Sư đáp:
Đào thắm trên cây thời tiết đúng
Cúc vàng bên dậu chẳng là Xuân!
(Hồng đào thụ thượng chân thời tiết
Hồng cúc ly biên bất thị Xuân)
(Thượng Sỹ Ngữ Lục)
Nụ cười của đức Di Lặc chỉ cho chúng ta thấy rằng đào thắm, cúc vàng, thời tiết chẳng làm nên được mùa Xuân. Mùa Xuân vốn có sẵn trong pháp giới cũng như trong tâm của mọi người. Mùa Xuân đó không ở trong không gian hay thời gian. Nó vốn có sẵn nhưng chỉ được nhìn thấy và sống với khi có thể dừng lại ngay trong dòng biến dịch của thời gian để thấy được phút giây hiện tại, phút giây chứa đựng cả không gian và thời gian, là chỗ mà không gian và thời gian gặp nhau, chỗ mà trong thâm sâu của tâm thức, con người muốn đi tìm trong ngày Tết. Đó là Phật Tánh tiềm ẩn trong mọi chúng sanh.
Trong Uttaratantra, đức Di Lặc mặc khải cho ngài Vô Trước giáo lý Phật Tánh có sẵn trong tâm của mọi chúng sanh có đoạn sau đây:
Bảo tàng nằm dưới nền nhà của kẻ nghèo khó
Nhưng vì y không biết có bảo tàng
Nên không biết rằng mình là người giàu có.
Cũng thế, trong tâm mỗi người đều có sẵn chân lý bất hoại
Nhưng vì không thấy được nó,
Con người trôi theo dòng đau khổ không ngừng.
Bảo tàng nằm dưới nền nhà của kẻ nghèo khó
Y không nói rằng mình có một kho bảo tàng
Vì y không biết nó.
Cũng thế, kho tàng chân lý nằm trong căn nhà tâm,
Nhưng con người sống nghèo nàn vì thiếu nó.
Do đó người nhìn thấy sinh ra và sống thanh tịnh trong thế gian
Để mở bày kho bảo tàng vốn sẵn đó.
Đức Di Lặc là đấng đang và sẽ mở bày kho bảo tàng vốn sẵn đó. Ngài đi trong khắp thế gian để chuẩn bị cho sự thành tựu lớn của thế gian trong tương lai.
“Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói :“Không khởi tu thiền định, không vọng trừ phiền não. Phật thọ ký cho người này thành Phật không nghi”.
Học sĩ Trần Tú Ngọc có lần hỏi Tổ Vạn Tùng rằng : “Ðức Di Lặc Bồ Tát vì sao chẳng tu thiền định, chẳng dứt trừ phiền não ?”
Tổ Tùng đáp : “Chân Tâm vốn tịnh, nên chẳng tu thiền định. Vọng tưởng vốn không, nên chẳng dứt lìa phiền não”.
Học sĩ lại đem câu này hỏi Ngài Hương Sơn Ðại Nhuận Hòa Thượng. Ngài đáp : “Tâm Thiền vốn định, chẳng trở lại tu. Phiền não tịch diệt, chẳng cần lại đoạn”.
Học sĩ lại đem hỏi Ngài Trúc Lâm Hải Cự Xuyên. Tổ Xuyên đáp :“Vốn không có thiền định, phiền não !”
Học sĩ nói : “Chỉ có thế này mới khoái !”
(Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông)
Hình ảnh đức Di Lặc mà người Trung hoa và Việt nam hay thờ là hình ảnh của một vị Thiền sư tên là Bố Đại (Bố Đại Hòa Thượng). Tương truyền Ngài là một hóa thân của đức Di Lặc. Khi sắp tịch Ngài ngồi ngay thẳng trên bàn thạch dưới đông lang ở chùa Nhạc Lâm, nói bài kệ:
Di Lặc chơn Di Lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhơn
Thời nhơn giai bất thức.
(Di Lặc thật Di Lặc
Phân thân nghìn trăm ức
Luôn luôn chỉ dạy người
Người đời không tự biết.)
Theo Priyanshu Shrivastava, những ý tưởng về hình tượng của Phật Di Lặc xuất phát từ những tin tưởng về sau của người Phật tử rằng đời sống tốt đẹp và xứng ý có thể đạt được trong thế gian nầy. Nó có thể có được qua việc sống một đời sống đơn giản, cố gắng chân chính, lòng rộng lượng và sự hiểu biết.
Nụ cười của Phật cũng nói lên cái nhìn vào thế gian bằng cái nhìn hài hước. Nụ cười hài hước không mâu thuẩn với nụ cười bao dung. Khi nhìn từ cái toàn thể, thấy con người cũng đầy đủ Tánh Phật lại lăng xăng trong những cái đối kháng nhau, miệt mài với những mảnh vụn không thật, thật đáng cười mà cũng đáng yêu biết mấy.
Tuy nhiên, hình ảnh đức Di Lặc bụng lớn miệng cười xề xòa đã bị thế gian hóa nặng nề theo thời gian và càng ngày càng bớt đi sự truyền cảm.
Theo niềm tin của người Trung hoa, hình ảnh đức Phật cười có thể đem đến sự may mắn, thành công, hạnh phúc, mãn nguyện, sung túc và giàu có. Qua thời gian, hình ảnh Phật giáo bị người Trung hoa làm pha trộn bằng những lý tưởng Trung hoa về đời sống và sự hạnh phúc. Sự pha trộn đó đã làm lệch lạc những lý tưởng và giá trị nguyên thủy của Phật giáo. Và ngày nay, hạnh phúc đã trở thành đồng nghĩa với sự giàu có về vật chất. Hình ảnh đức Phật Di Lặc trở thành một vị thần được sùng bái với hy vọng có được của cải dồi dào và cuộc sống may mắn. Hình tượng đức Phật Di Lặc bị đồng hóa với “ông địa” trong tín ngưỡng dân gian của Trung hoa.
Trong thời buổi mà vật chất đang đè bẹp con người, chúng ta nên trở về tìm lại nụ cười nguyên sơ của đức Di Lặc, cũng là nụ cười của tất cà chư Phật. Về hình tướng, chúng ta nên trở về với hình ảnh truyền thống của Ngài còn tồn tại ở Ấn Độ và Tây tạng.
Tóm lại, đức Phật Di Lặc là đức Phật của tương lai, là niềm hy vọng cho tương lai. Niềm hy vọng nầy được xây dựng ngay từ bây giờ, bằng hạnh phúc và an lạc ngay bây giờ và ở đây. Hạnh phúc hiện tại sẽ là nền tảng cho hạnh phúc tương lai. Sống trong mùa Xuân hiện tại là để thành tựu cho một Mùa Xuân Lớn trong tương lai.
Nụ Cười Của Tiền Nhân
Cư Trần Lạc Đạo Phú của Trần Nhân Tông có đoạn:
Biết vậy !
Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác
Gìn tính sáng tính mới hầu an
Nén niềm vọng niềm dừng chẳng thác
Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương
Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác
Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi mựa phải nhọc tìm về cực lạc …
Các Thiền sư Việt Nam thường dùng hình ảnh mùa Xuân để diễn tả tâm an lạc của giác ngộ, cái tâm luôn mới mẻ, luôn tràn đầy. Vua Trần Nhân Tông dùng chữ Được Lòng để nói lên trạng thái tâm cảnh nhứt như đó. Và đó là nụ cười của Thiền sư Giác Hoàng.
Được Lòng có nghĩa là được Tâm, thấy được Phật Tánh, Pháp Thân. Đó là thấy được nền tảng thanh tịnh và trong sáng bản nhiên của vạn pháp, thấy được sự kết nối trùng trùng duyên khởi, luôn luôn biến dịch nhưng luôn luôn hòa điệu của pháp giới.
Được Lòng trong tiếng Việt có nghĩa là được cả tâm mình lẫn tâm người. Cái tâm được cả mình và người là cái tâm phổ quát, nguyên sơ. Tâm đó là Tâm Phật. Khi được tâm mình mà không được tâm người thì có nghĩa là chưa đủ, chưa trọn vẹn, hay chưa đúng. Một dấu hiệu của sự Được Lòng hay giác ngộ là thấy rằng chúng ta và tất cả mọi người đều bình đẳng, đều như nhau trong nền tảng của sự sống; rằng chúng ta và mọi người, mọi loài có sự kết nối không thể tháo gỡ trong bản thể của chúng ta và của mọi sự vật; tất cả chúng ta đều cùng tròn đủ Tánh Phật. Sự kết nối với con người, với vạn vật đó được Thiền Sư Mãn Giác nói lên qua hình ảnh một cành mai, được Trần Nhân Tông nói lên qua hình ảnh một đóa hồng đang rơi, hay hình ảnh hai người cùng đứng lặng chìm mình trong thiên nhiên. Nhìn thấy sự kết nối của mọi sự mọi vật đó là nhìn thấy bản chất của sự sống, là dứt trừ nhơn-ngã. “Đó là cái thấy không phân ly, một là tất cả và tất cả là một, ngay ở đây và bây giờ. Đó là cái thấy không ta, không người, không chúng sanh, không người thọ, đồng thời cũng là cảnh giới Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Đó là Tâm, Tâm Phật cũng là Tâm của tất cả chúng sanh.”
Được Lòng trong ngôn ngữ Việt Nam còn nói lên sự thỏa mãn trọn vẹn. Sự thỏa mãn trọn vẹn đó là niềm vui dàn trải từ bên trong đến bên ngoài. Niềm vui đó là sự Được Lòng, là nắm được cái nền tảng, cái cốt tủy của đời sống.
Như vậy Được Lòng có nghĩa là sống trong Pháp Tánh, trong sơ tâm, thấy rõ không qua suy luận tánh vô ngã rỗng rang của mỗi chúng ta và người khác, đồng thời cũng thấy rõ rằng chúng ta và mọi người, mọi loài đều có sự kết nối trong nhau.
(Thị Giới, Vài Nét Đặc Trưng Của Phật Giáo Việt Nam)
Đạo Phật là đạo của niềm vui. Người Phật tử là người biết yêu mến cuộc sống. Nói như Thanissaro Bhikkhu, “Đức Phật không bao giờ đòi hỏi chúng ta đóng khung tâm thức trong việc phủ nhận thế gian hay khẳng định thế gian. Ngài muốn chúng ta khám phá thế gian.” (Niềm Vui Tinh Tấn.) Đời sống là môi trường, là phòng thí nghiệm để chúng ta khám phá sự sống, khám phá ra rằng chính đời sống là một bảo tàng. Từ đời sống chúng ta khám phá ra niềm vui, ra cái Được Lòng. Niềm vui đó, cái Được Lòng đó chỉ có thể thành tựu trong sự hợp nhứt, trong cái toàn thể. Và sự thành tựu đó chỉ xảy ra trong sự giao hội hài hòa giữa không gian và thời gian.
Thiền sư Mãn Giác thời Lý có bài kệ Thị Tịch:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa tươi
Việc đời qua trước mắt
Trên đầu già đến rồi.
Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.)
Đó là không gian không ngăn cách và thời gian không hạn cuộc. Đêm qua sân trước là thời gian và không gian. “Một cành mai” là cái xúc tác để thời gian của “đêm qua” và không gian của “sân trước” được hiển bày trong sự hợp nhứt, trong cái toàn thể. Nếu không có một cành mai thì đêm qua sân trước vẫn là đêm qua sân trước, vẫn là một toàn thể hợp nhất của không gian và thời gian. Và khi bắt được thời gian và không gian đó, nhận ra được khuôn mặt thật của mùa Xuân, cũng là khuôn mặt thật của bốn mùa Xuân, Hạ, Thu và Đông, thì liền có được niềm vui bất tuyệt như vua Trần Nhân Tông đã thốt:
Như kim khám phá Ðông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
(Khuôn mặt chúa Xuân nay khám phá
Ngồi trên thiền đệm ngắm hoa rơi.)
Như chúng ta đều biết, vua Trần Nhân Tông là một vị vua lãnh đạo chiến thắng hai cuộc chống ngoại xâm Nguyên Mông, tổ chức thành công Hội Nghị Diên Hồng, xây dựng một xã hội đạo đức, thanh bình, có nề nếp, cũng là vị vua đã mở mang bờ cõi trong tinh thần hòa bình. Như vậy, Đuợc Lòng, nụ cười của Phật giáo Việt nam nói riêng và của Phật giáo nói chung, là một nụ cười gắn bó và hòa nhịp với bước chân của thời đại, nhân sinh, xã hội và con người, là Thực tại sống động ở ngay đây và bây giờ.
Và Nụ Cười Của Chúng ta
Nụ cười của Phật mất đi trên thế gian khi chúng ta chìm vào trong tham, sân, si, mạn, nghi. Nó mất đi khi chúng ta sống một đời sống ngăn cách, xa lìa, chia chẻ, bất hòa. Nụ cười đó cũng mất đi khi chúng ta không còn biết lắng nghe, không còn biết chiêm ngưỡng, tôn trọng, yêu mến và biết ơn những cái đẹp của đời sống. Nụ cười đó cũng không còn nữa khi chúng ta không hòa nhập được vào dòng sống của thời đại, của xã hội, không đồng hành cùng con người và thời đại chúng ta đang sống.
Chúng ta hãy nhìn bằng cái nhìn “Bốn mắt nhìn nhau” (*) để có thể nhìn sâu vào nhau, để có thể nhìn được Phật tánh của nhau.
Chúng ta hãy chúc nhau bằng lời chúc của ngài Chân Nguyên:
Quốc gia vĩnh cữu, ngôi báu kim luân và trời đất trường tồn.
Phật đạo không cùng, nối Tổ truyền Tông cùng Thứu Phong chẳng mất.
Hãy lấy nụ cười của Phật làm nền tảng, làm con mắt cho những lời chúc đó. Khi xã hội có nền tảng, có con mắt thì nó mới phát triển đúng hướng, con người trong đó mới có hạnh phúc, và đất nước mới thanh bình, giàu mạnh.
Nụ cười đó thật sự vẫn mãi mãi tồn tại trong tâm của mỗi người, đó là Phật tánh vốn sẵn của mỗi người. Để khơi lại nụ cười đó, chúng ta cần phát triển và đào sâu cái nhìn, cái thấy để cảm thông, để có tình thương, trách nhiệm, lòng lân mẫn và biết đối xử bằng trái tim ấm áp với mọi người, mọi loài, hữu tình hay vô tình.
Nụ cười đó không phải khó nhọc đi tìm như chàng trai kia cột đá vào lưng, nhọc nhằn leo lên đầu núi thẳm để tìm kiếm, như trong một cuốn phim của Đại Hàn có tên Xuân Hạ Thu Đông. Nhưng nụ cười đó nằm ngay trong cuộc sống bình thường, đói ăn khát uống, đúng thời khắc thì tự tại ra đi như của vị Thầy.
Nụ cười đó vốn sẵn ngay đây và bây giờ, ở ngay trong điểm giao hội giữa không gian và thời gian mà chúng ta dễ cảm nhận qua ngày Tết, qua mùa Xuân. Khi tâm thức dừng lại, “không nghĩ thiện, không nghĩ ác” (**), khi tâm thức xả bỏ mọi thứ trong quá khứ (của năm cũ) và chưa nhọc nhằn tính toán cho tương lai, Phật Tánh sẽ chiếu qua chỗ dừng nghỉ đó để hiển lộ. Hãy chộp lấy nó và gìn giữ nó. Khi chúng ta chộp bắt được nền tảng của mùa Xuân, chúng ta sẽ chộp bắt được nền tảng của sự tương giao giữa chúng ta và thế giới, giữa chúng ta và cái nền tảng nằm bên sau và bao trùm mọi hiện tượng, mọi tưởng niệm. Khi đó chúng ta Được Lòng. Khi Được Lòng rồi, như lời dạy của các Thiền sư, chúng ta hãy khéo quán sát và giữ gìn Nó.
Hy vọng nụ cười của Phật sẽ vẫn nở cho đến khi mọi người đều nhìn thấy và cảm nhận. Và cũng hy vọng rằng mùa Xuân sẽ là một môi trường để chúng ta dừng lại và nhìn thấy nụ cuời đó, như tiền nhân của chúng ta đã từng làm.
Xin chúc mọi người:
Xuân đến, Xuân đi, Xuân bất tận,
Vui hoài, vui mãi, vui không cùng.
Thị Giới
http://buddhahome.net/phatphap/tongquat/
_______________________________________
Chú thích:
(*) Năm 19 tuổi, Thiền Sư Chân Nguyên lên chùa Hoa Yên vào yết kiến Thiền sư Tuệ Nguyệt (Chân Trú).
Thiền sư Tuệ Nguyệt hỏi:- Ngươi ở đâu đến đây ?
Sư thưa:- Vốn không đi lại.
Tuệ Nguyệt biết Sư là pháp khí sau này, bèn thế phát xuất gia cho pháp danh là Tuệ Đăng. Sau không bao lâu Tuệ Nguyệt tịch. Sư cùng bạn đồng liêu là Như Niệm phát nguyện tu hạnh đầu-đà đi du phương để tham vấn Phật pháp. Thời gian sau, Như Niệm đổi ý trở về trụ trì chùa Cô Tiên. Sư đi lên chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham vấn Thiền sư Minh Lương là đệ tử của Chuyết Chuyết.
Sư hỏi: – “Bao năm dồn chứa ngọc trong đãy, hôm nay tận mặt thấy thế nào” là sao ?
Thiền sư Minh Lương đưa mắt nhìn thẳng vào Sư, Sư nhìn lại, liền cảm ngộ, sụp xuống lạy. Minh Lương bảo:
- Dòng thiền Lâm Tế trao cho ông, ông nên kế thừa làm thạnh ở đời.
Minh Lương đặt cho Sư pháp hiệu là Chân Nguyên và bài kệ phó pháp:
Ngọc quý ẩn trong đá
Hoa sen mọc từ bùn
Nên biết chỗ sinh tử
Ngộ vốn thật Bồ-đề.
(Mỹ ngọc tàng ngoan thạch
Liên hoa xuất ứ nê
Tu tri sinh tử xứ
Ngộ thị tức Bồ-đề.)
Chính vì chỗ ngộ này, sau Sư soạn quyển “Trần Triều Thiền Tôn Chỉ Nam Truyền Tâm Quốc Ngữ Hành” có cả thảy bảy lần nói về “Tứ mục tương cố” (bốn mắt nhìn nhau).(HT Thích Thanh Từ.)
(**) Ngài Huệ Năng, Pháp Bảo Đàn Kinh.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)